????Buddha eyes – Biểu tượng Mắt Phật hay Đôi mắt Tây Tạng????
Tương truyền đôi mắt của Đức Phật Tất Đạt Đa vẫn đang quan sát thế gian. Nếu du lịch đến Tây Tạng hoặc Nepal, bạn có thể sẽ bắt gặp hình vẽ một đôi mắt bí ẩn này. Biểu tượng Mắt Phật là biểu tượng đặc trưng nhất của Phật giáo Nepal. Nhìn vào đôi Mắt Phật người ta không chỉ thấy tính đại diện đặc trưng mà còn thấy những ý nghĩa tôn giáo sâu sắc.

Trong cuốn sách “Ma Trận – Sự sống trên Trái Đất”, bác sĩ nhãn khoa Erono Mundasep cũng đã đề cập đến đôi mắt này. Vậy mối quan hệ giữa yếu tố vật chất và tinh thần xoay quanh đôi mắt này là gì.
Miêu tả chi tiết về hình vẽ đôi mắt bí ẩn
Con mắt thứ ba nhìn thấy xa hơn những điều vật chất trên thế giới. Nói cách khác, đó là sự thức tỉnh của sức mạnh tinh thần, của kiến thức và trí tuệ. Đôi mắt của Đức Phật có thể nhìn thấy những điều mà mắt thường không thể nhìn thấy.
Ý nghĩa cụ thể của các chi tiết trên
Đức Phật là một người đã thức tỉnh, người đã hy sinh sự thoải mái về vật chất (rời bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ và ngai vàng đang chờ đợi) để đi tìm Sự Thật, Chân Lý của cuộc sống.
Qua những khó khăn của mình, Đức Phật đạt được sự giác ngộ, tình trạng của sự giác ngộ đó được đại diện bởi các biểu tượng con mắt thứ ba.
Chiếc mũi nhọn trông giống như một dấu chấm hỏi (?) Cũng có một ý nghĩa thú vị. Biểu tượng này thực ra có nghĩa là số một (1) trong tiếng Phạn, trong đó chỉ ra sự thống nhất của tất cả mọi thứ. Một số cũng nói rằng chỉ có một cách để đạt đến giác ngộ: qua lời dạy của Đức Phật.
Bạn có thể quan sát biểu tượng này từ đâu?
Bạn có thể tìm thấy mắt Phật trên bốn mặt của tòa bảo tháp của đền thờ ở Nepal. Điều này có nghĩa cho biết khả năng nhìn thấu tất cả của Đức Phật. Nó có nghĩa là Đức Phật luôn nhìn xuống thế gian này thông qua đôi mắt của mình và ban phước cho chúng ta.
Đôi mắt của Đức Phật trong hình thức tương tự cũng được tìm thấy trong hầu hết mọi bức tượng của Đức Phật trên khắp xung quanh. Đôi mắt này cũng được tìm thấy trên hầu hết các bức tượng của Đức Phật tại nhiều quốc gia. Nghệ sĩ đến từ các quốc gia Phật giáo lớn miêu tả Đức Phật với hai con mắt trong trạng thái thiền định và một dấu chấm nhỏ ở giữa hai mắt. Mặc dù vậy, dấu chấm hỏi tượng trưng cho mũi lại quá khó để chuyển thể thành dạng ba chiều. Cho nên những “dấu hỏi” hình dạng mũi không được thực hiện trong những bức tượng.
Đức Phật nhắn nhủ chúng sinh điều gì qua đôi mắt này?
Theo Đức Phật, hạnh phúc về vật chất là không thực tế và chỉ mang tính tạm thời. Bởi lẽ điều đó không phản ánh chính xác ý nghĩa thực sự của cuộc sống và hạnh phúc. Nếu ai đã biết về luật nhân quả, ắt sẽ hiểu những gì ta có hôm nay là từ cái nhân khi xưa. Cũng theo đó, chỉ cần còn ở trong vòng luân hồi, ta vẫn có thể tạo ác nghiệp. Do đó, Ngài muốn khuyên răn chúng sinh một lần nữa hãy nhanh chóng tu tâm. Ngài mong chúng sinh có thể buông bỏ tà niệm, hướng đến giác ngộ.
Cái chết là không thể tránh khỏi, nhưng với tình trạng của sự giác ngộ, người ta có thể có được hạnh phúc, hạnh phúc đó là có thật và vĩnh viễn. Cách duy nhất để có được trạng thái đó là bằng cách làm theo những gì Đức Phật đã dạy chúng ta.
Do đó, hãy tin rằng hình vẽ đôi mắt của Đức Phật chính là hiện thân của Ngài đang quan sát thế gian. Và khi nhìn vào đôi mắt này, ta sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đức Phật. Đôi mắt của Đức Phật đang nhìn chúng ta, như mong rằng chúng ta có thể sẽ thức tỉnh kịp lúc mỗi khi ác niệm hình thành. Và sẽ trở thành người giác ngộ, tỉnh thức và hạnh phúc viên mãn giống như Ngài.
– St –
– Om Mani Padme Hum –https://www.facebook.com/110397320314103/posts/373283057358860
Mắt Phật ở Lumbini
Không dám mong rằng đời mình rồi sẽ có một lần đến quê hương Đức Phật, cũng không dám nghĩ rằng có lúc mình sẽ được quỳ xuống bên trụ đá của vua Asoka để tụng bài Khánh đản, do đó, lòng tôi hân hoan mà khóe mắt cay xè.
Nhẹ nhàng cởi giày và nhẹ nhàng bước vào ngôi chùa thiêng đảnh lễ dấu chân Phật in hằn trên đá, chạm đầu vào những hòn gạch cũ kỹ được ai đó dát vàng sáng lên rực rỡ, tôi nghe dâng trào một niềm hạnh phúc vô biên. Từ thẳm sâu trong ký ức, những lời hát thuở thiếu thời vang vọng trong tôi: “Muôn chim hót mừng lá hoa thơm ngát ngào / Muôn hào quang ngời rạng chiếu khắp núi sông / Cây vô ưu đến nay chúng sanh luôn nhắc hoài / Nơi Lâm Tỳ Ni còn ghi bao ngày vui…”.
Bao ngày vui ở Lumbini đó đã qua lâu lắm rồi, những hơn 2.500 năm. Và hôm nay, những người con Phật, trong đó có tôi, về đây để mong hưởng được một chút vui còn sót lại – vui mà nghe nước mắt dâng tràn, vì kim đắc nhân thân Phật cửu diệt độ; áo não tự thân đa nghiệp chướng, bất kiến Như Lai kim sắc thân. Ngồi trên những thềm gạch cũ, tôi bồi hồi tưởng lại, rõ ràng, với những nền gạch kia, Lumbini đã có một thời hết sức huy hoàng với hàng ngàn chiếc áo cà sa rực lên trong nắng và những lời kinh trầm hùng, bay bổng…
Giếng nước nơi Đức Phật Đản sanh tại Nepal
Lòng chợt dịu lại khi tôi thấy, sau hơn nghìn năm chìm vào quên lãng, giờ đây Lumbini cũng ngập những bóng cà sa. Bên thảm cỏ kia là một nhà sư Tây Tạng, với chiếc y đỏ nổi bật, đang hướng về trụ đá lạy dài xuống đất. Dưới bóng cây nọ, trên băng ghế gỗ, là một nhà sư áo vàng điềm nhiên tĩnh tọa. Có cả một vài nhà sư Ấn Độ đang ngồi đọc kinh dưới gốc Bồ đề… Không gian vườn thiêng bỗng trở nên sâu lắng, tĩnh lặng. Một sức sống nội tâm đang âm ỉ bùng lên, lan tỏa trên từng cành cây, ngọn cỏ. Tôi lặng lẽ ngồi xuống một băng ghế và tĩnh tọa. Trong khi lắng nghe hơi thở, đôi mắt Phật trên ngọn tháp cứ hiện về trong tâm trí tôi. Tôi mở mắt và cảm thấy Phật đang yêu thương nhìn mình…
Thật kỳ lạ, tôi từng nhìn thấy đôi mắt Phật như thế ở đâu đó, nhưng không hiểu sao đôi mắt Phật ở Lumbini lại cuốn hút tôi mạnh mẽ đến thế. Đôi mắt Ngài to và rộng, mềm mại như cánh sen với đôi tròng đen-xanh biêng biếc. Tướng lông trắng giữa chặn mày như ngọc kha nguyệt, xoắn tròn lại như một con mắt thứ ba. Đặc biệt, cái mũi uốn cong như một dấu hỏi. Nghệ nhân nào đã vẽ nên đôi mắt ấy thật thần tình, đúng tướng đôi mắt trong 32 tướng tốt của Phật. Cám mục trừng thanh tứ đại hải – bốn biển lớn trong ngần mắt biếc…
Sau này tôi biết, những đôi mắt Phật như thế phổ biến trên khắp xứ sở Nepal và một số ngôi chùa ở Tây Tạng. Nhưng chỉ ở Nepal, đôi mắt Phật ấy mới là biểu tượng của Phật giáo xứ Tuyết Sơn này. Hầu như đi đến đâu trên đất Nepal người ta cũng có thể mua được những vật kỷ niệm có hình mắt Phật. Dù vậy, với riêng tôi, khi trông thấy mắt Phật với chiếc mũi hình dấu hỏi (trong ký tự Nepal, dấu hỏi này là số 1 – biểu tượng của một trong tất thảy, cũng như con đường duy nhất đi đến giác ngộ thông qua lời Phật dạy), tôi lại nhớ đến Lumbini. Đôi mắt Ngài ngập tràn từ bi và tuệ giác, đôi mắt của một Tượng vương, đôi mắt của một Pháp vương:
“Tại đỉnh một núi cao,
Ðưa mắt nhìn xung quanh,
Quần chúng dưới chân mình.
Cũng vậy, Ngài Thiện thệ,
Leo lên lầu Chánh pháp,
Biến nhãn, không sầu muộn,
Nhìn xuống đám quần sanh
Bị ưu tư sầu khổ,
Bị sanh già áp bức.
Anh hùng, hãy đứng lên,
Bậc chiến thắng chiến trường,
Vị trưởng đoàn lữ khách,
Ðấng thoát ly nợ nần,
Thế Tôn hãy thuyết pháp,
Bộ hành khắp thế gian,
Có người nhờ được nghe,
Sẽ thâm hiểu diệu nghĩa”.
(Tương Ưng, SN VI.1 – Thỉnh cầu khai pháp)
Tuy thế, có người từ xa nhìn vào đôi mắt Phật với chiếc mũi uốn cong và lọn lông trắng giữa chặn mày ấy, họ lại liên tưởng đến một con bướm với đôi cánh to phấp phới. Thật là một ý tưởng kỳ lạ!
… Tạm biệt Lumbini, ra khỏi cổng, tôi còn ngoái nhìn đôi mắt Phật. Dù không nghĩ đôi mắt hình cánh sen to lớn của Phật là đôi cánh bướm, nhưng tôi cảm thấy đôi mắt ấy như đang chấp chới nhìn mình. Và lòng tôi cũng đang chấp chới. Tôi lại phải trở về với cõi bụi hồng mà không biết ngày nào mới được trở lại đất Phật, để được thấy đôi mắt Ngài rộng mở nhìn tôi, rộng mở tuyên thuyết pháp mầu.
Xin thành kính đảnh lễ Mắt Phật. Xin thành kính đảnh lễ Một Người, mà sự xuất hiện của người đó “là sự xuất hiện của mắt lớn, là sự xuất hiện của đại quang, là sự xuất hiện của đại minh, là sự xuất hiện của sáu vô thượng, là sự chứng ngộ bốn vô ngại giải, là sự thông đạt của nhiều giới, là sự thông đạt của các giới sai biệt, là sự chứng ngộ của minh và giải thoát, là sự chứng ngộ quả Dự lưu, là sự chứng ngộ quả Nhất lai, là sự chứng ngộ quả Bất lai, là chứng ngộ quả A-la-hán…” (Kinh Tương Ưng – Tương Ưng Phạm Thiên).
Đỗ Thiền Đăng