CÁI MÕ
Một trong những pháp khí rất quan trọng hay dùng trong Phật Giáo đó chính là cái mõ.
Mõ được dùng để đánh khi tụng kinh, hay có khi là dùng để báo hiệu giờ thọ trai, ……
Nhưng cũng có nhiều điều về chiếc mõ mà không phải quý vị nào cũng biết.
Chúng ta cùng tìm hiểu
MÕ vốn là một loại nhạc khí thuộc bộ gõ tự thân vang, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, thế nhưng mõ có xuất xứ từ Phật giáo. Mõ là một trong những pháp khí quan trọng trong thiền môn, ngày nay được sử dụng rất rộng rãi.
* CHẤT LIỆU VÀ TÊN GỌI:
Mõ trong Phật giáo làm từ các loại gỗ chắc dẽo, cứng, để gõ lâu hư, thường có hình cầu dẹt với nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau, tất cả ở giữa đều khoét rỗng, hình lòng máng. Dùi gõ mõ cũng làm bằng gỗ, kích cỡ của dùi to nhỏ tương xứng với kích cỡ của mõ.
Thời xưa gọi là Mộc Ngư Cổ, Mộc Đạt, Ngư Cổ, Ngư Bản. Đây là loại pháp khí có khắc hình con cá, khi gõ thì phát ra tiếng: cóc cóc, cum cum,… âm vang đều đặn sâu lắng!. Tùy theo kích cỡ lớn nhỏ mà âm lượng cũng bất đồng, đây chính là loại mõ dùng để tụng kinh trong nhà chùa hiện nay vậy.
Trong điển tịch Phật giáo, những câu chuyện liên quan đến mõ rất nhiều, còn trong hoạt động tán tụng Phật giáo, mõ là một pháp khí quan trọng.
* CÂU CHUYỆN VỀ CÁI MÕ:
– Trong kinh Phật có câu chuyện chép rằng :
“Trong gia đình Bà La Môn có người con tên là Bạc Câu La, thuở nhỏ mẹ ruột đã qua đời, người mẹ kế vô cùng khắc nghiệt ngược đãi, có lần cha Ngài không có ở nhà nên bị mẹ kế đánh, đem Ngài ném xuống sông, con cá to bèn nuốt trọng, cá nầy bị người chày lưới bắt rồi đem ra chợ bán và được phụ thân của Ngài Bạc Câu La mua về.
Khi đem về nhà, lúc làm thịt thì nghe tiếng kêu cứu của Ngài Bạc Câu La, ông bèn cứu được con mình ra. Sau nầy Ngài qui y Phật, trở thành người sống lâu đến 160 tuổi”.
Thế nhưng, sau khi câu chuyện nầy truyền đến Trung Quốc, thì tình tiết của nó trở nên thay đổi:
– Vào đời Đường, Ngài Huyền Trang từ Tây Vực thỉnh kinh trở về. Khi đi qua đất Thục, gặp một Trưởng giả và được mời đến nhà ông để thọ trai. Con của Trưởng giả nầy bị vợ kế làm hại, đem ném xuống sông và bị cá nuốt trọng, sau được Trưởng giả mua cá về làm thịt thì thấy con mình trong đó.
Sau khi nghe được chuyện ấy, Ngài Huyền Trang nói: “Cá vì cứu đứa con mà bị chết, nên phải dùng gỗ khắc hình cá treo ở trong chùa, mỗi khi đến giờ cơm thì đánh lên nhằm để báo đáp ân nó”.
– Trong “Pháp Khí Môn, sách Bách Trượng Thanh Qui” chép:
“Thuở xưa, có Tỳ kheo trái lời Thầy dạy, thường chê bai giới Pháp. Sau khi chết đi bị đầu thai thành cá, nhưng trên lưng cá có một gốc cây dài, trong biển sóng cuồn cuộn nổi lên, lưng cá dao động không thôi, da thịt bị rách nát, máu chảy rất nhiều, con cá nầy đau khổ vô cùng”.
Về sau vị Thầy có việc qua biển, cá bèn quậy sóng, nói với vị Thầy rằng: Vì trước kia ông không dạy, nên mới ra nông nổi nầy, vì thế tôi nay báo oán giết chết ông.
Vị Thầy ôn tồn hỏi tên họ của nó. Sau khi cá đáp xong, Thầy mới biết duyên do quả báo, bèn khuyên nó sám hối và thiết lập Pháp hội siêu độ.
Sau vị Thầy nằm mộng thấy nó thoát khỏi thân cá và còn yêu cầu đem khúc gỗ trên thân nó đẽo thành hình cái mõ cúng dường Tăng chúng, nhằm để có dịp thân cận Tam bảo. Vị Thầy khi tỉnh mộng đi ra biển, quả nhiên thấy khúc gỗ và thây cá. Sau đó đem về khắc hình con cá và treo trong chùa, rồi định giờ khắc mà đánh, để biểu thị răn nhắc đại chúng”.
– Lại có câu chuyện cho rằng, sở dĩ mõ có hình con cá là bắt nguồn từ sự tích Trương Hoa đời nhà Tấn, dùng cái dùi bằng gỗ cây vông có chạm hình con cá để đánh trống đá.
– Trong Bách Trượng Thanh Qui chép:
“Tương truyền cá ngày đêm thường tỉnh, bèn khắc hình nó để đánh, nhằm cảnh tỉnh sự hôn trầm của đại chúng, cũng nhằm nhắn nhủ: Tăng chúng khi tụng kinh phải gõ mõ, nhân vì tất cả loài cá khi ngủ con mắt không nhắm, (vì nó vốn không có mi mắt, do đó không thể nhắm lại – theo sách Mười Vạn câu hỏi vì sao của NXBVHSG). Cho nên người xuất gia mượn hình tượng cá, để biểu thị sự tinh tấn, không dám lười biếng”.
– Theo bộ “Thích Thị Yếu Lãm – còn gọi là Phật Học Bị Yếu” chép:
“Tỳ kheo hỏi Phật, dùng gỗ gì để làm kiền chùy? Phật dạy: Ngoài cây sơn ra, còn tất cả những loại cây khác, chỉ cần đánh có tiếng kêu thì đều làm được”.
* HÌNH DẠNG CỦA CÁI MÕ:
Phương pháp để điêu khắc Mộc ngư, trước hết là đem một gốc cây chạm thành hình con cá xong xuôi rồi mới khoét rỗng ruột, ngoại hình phải chạm đầu, vây, đuôi. Sau đó sơn phết, rồi vẽ mắt.
Trong Tự viện Phật giáo sử dụng mõ có hai loại:
Bang – Mõ dài
Khắc hình con cá hoặc đầu rồng vải cá, loại nầy thường treo ở trai đường, hoặc treo ở hành lang nhà bếp, đánh để tập họp Tăng chúng. Loại mõ nầy còn gọi là “Bang” tức là cái bảng trong thiền lâm, đánh lên để báo cho đại chúng biết giờ ăn, giờ đi tắm… còn gọi là Phạn Bang – bảng báo giờ ăn, mộc ngư – cá gỗ, ngư cổ – trống cá, ngư bản – bảng hình cá, ngư bang, minh ngư – con cá gáy.
Trong thiền lâm thời xưa, bảng thường treo ở nhà tắm, đánh lên để đại chúng biết giờ đi tắm.
Sách “Thiền Lâm Tượng Khí Tiên, Đệ Nhị Thập Loại Bái Khí Môn” chép: “Trong quyển Sa Di Nghi Nhập Dục ghi rằng: Nước lạnh hay nóng cứ theo thường lệ mà đánh bang, không được gọi to”.
Bang thường dùng để thông báo cho đại chúng biết giờ thọ trai, ngày nay thì trong thiền lâm có đẻo cái bang gỗ mình hình con cá, đầu hình rồng, miệng ngậm trái châu, treo phía ngoài nhà Tăng hoặc nhà trai. Tuy nhiên, đây chỉ là một hình thức biến thái của loại mộc ngư ngày xưa.
Ngoài ra, nếu là “Bang” là loại mõ dùng để đánh hiệu thông báo với đại chúng trong các cơ quan chánh quyền của xã hội Trung Quốc thời xa xưa”.
– Mõ tròn: Dùng để đánh khi đọc kinh, nhằm để hòa âm, cảnh tỉnh hôn trầm của đại chúng, trong tự viện mõ có lớn nhỏ bất đồng, lớn thì để trên giá, nhỏ thì cầm tay, mõ có tác dụng điều tiết nhịp điệu, đề tỉnh tinh thần.
Mõ tròn
+ Loại mộc ngư hình tròn này có đơn ngư và song ngư.
Đơn ngư là đầu đuôi nối tiếp nhau.
Đơn ngư
Song ngư là về sau nầy xuất hiện mộc ngư hình rồng 1 thân 2 đầu hướng vào nhau cùng ngậm hạt châu. Thuyết này lấy từ tích “cá hóa rồng” nhằm để biểu đạt chuyển Phàm thành Thánh.
* CÁC LOẠI MÕ THƯỜNG GẶP TRONG DÂN GIAN(1):
Mõ làng là gì?
– Mõ làng: Có loại làm bằng gỗ cứng hình cá trắm to dài khoảng 1m, khoét rỗng dài theo bụng cá và thường treo ở điếm làng. Có loại làm bằng gốc tre già gọt theo hình trǎng khuyết, đường kính từ 15 – 20 cm, ở giữa có khoét một rạch rỗng. Cuộc sống nông thôn người Việt xưa, mõ làng có chức nǎng thông tin, được làng giao cho một người đàn ông phụ trách, thường được gọi là thằng mõ hay anh mõ. Vào những dịp có việc làng, sự kiện đột xuất cần thông báo, thì thằng mõ có nhiệm vụ gõ mõ thông tin cho khắp các gia đình trong làng biết.

– Mõ trâu: Làm bằng gỗ hoặc gốc tre già hình hộp đứng, có treo 2 hoặc 3 chiếc gậy gõ bằng gỗ ở bên trong. Người ta buộc mõ vào cổ trâu để xác định vị trí trâu bò nhà mình đang ăn cỏ. Khi trâu chuyển động, đi lại, mõ phát ra âm thanh nghe lách cách. Thông qua tiếng kêu của mõ mà con người phát hiện ra được địa điểm vì trí của trâu bò nhà mình.
Chiều về “lốc cốc” mõ trâu
Âm vang tiếng bản bên cầu nước xanh
Khói thơm bếp lửa vờn quanh
Lùa trâu về Púng(1) bên ghềnh ngẩn ngơ.
– NK
(1) Púng: thung cỏ
– Mõ trong Âm nhạc: Mõ thuộc bộ gõ, không định âm, tham gia hòa tấu trong các dàn nhạc sân khấu và nhiều loại hình ca hát khác. Cấu tạo của mõ loại này thường làm bằng tre già, hình trǎng khuyết như mõ làng, ở một số dàn nhạc tuồng, chèo còn dùng mõ gỗ như mõ chùa, kích cỡ vừa phải, đường kính từ 10 – 25 cm. Ngày nay mõ còn được dùng trong các tốp nhạc dân tộc mới và trong dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Mõ này làm từ sừng trâu cong, cắt bỏ phần đầu nhọn, lấy phần gốc dài chừng 10 – 15 cm. Âm thanh của mõ sừng trâu vang, khoẻ.
Mõ trong âm nhạc
* CÔNG DỤNG CỦA CÁI MÕ:
Mõ có rất nhiều công dụng, trước hết là dùng để tán tụng hòa điệu tiết tấu âm nhạc, đồng thời cũng biểu đạt sự tinh tấn không ngừng của đại chúng. Mõ còn dùng để tập hợp Tăng chúng.
Trong” Sắc Tu Bách Trượng Thanh Qui, quyển 8” chép: “Mộc ngư, hai thời cơm cháo đánh hai hồi dài, phổ thỉnh Tăng chúng đánh một hồi dài, phổ thỉnh hành giả đánh hai hồi dài”.
Mõ còn dùng để đánh canh, báo sáng. Phật Kinh chép: “Mỗi ngày khi giao thoa giữa thời khắc trong năm canh, hành giả các tự viện gõ kẻng hoặc gõ mõ để tuần hành báo sáng”.
Về sau mõ cũng là một công cụ để các Tỳ kheo đi khất thực hóa duyên, đánh liên tục lên để cảnh tỉnh người đời phát tâm từ bi.
Khi đánh mõ hành giả thầm tưởng bài kệ:
Phiên âm:
Gia trì mật niệm tẩy trần tâm
Mộc ngư khuyến hướng chuyển tam thinh
Thánh chúng lục hòa tuyên bối diệp
Tứ sanh cửu hữu xuất phàm trần.
Án Kim Cang Trang Nghiêm Tóa Ha (3 lần)
Tạm dịch:
Trì thêm mật ngữ hết lòng trần
Mõ khua ba tiếng chuyển tâm thân
Bốn chúng sáu hòa tuyên kinh kệ
Bốn loàn chín cõi thoát trầm luân.
An Kim Cang Trang Nghiêm Tóa Ha (3 lần)
Cách đánh “Mộc ngư” thường là ở mức trung bình, không nhanh không chậm. Tuy nhiên tùy theo tiết tấu âm điệu, nghi thức, thời khóa, mà uyển chuyển nhanh chậm bất đồng. Nếu như cần phải đánh nhanh thì phải khởi đầu từ chậm rồi dần dần tăng tốc đến nhanh.
Mõ có tác dụng làm cho hành giả tĩnh tâm, âm điệu hài hòa, khiến cho thân tâm rỗng lặng.
Theo cách xưng gọi về ngôn từ nghi lễ ở Việt Nam, khi phân vai đánh nhịp trong thời khóa, thì người đánh mõ gọi là Duyệt Chúng, nghĩa là làm vui lòng đại chúng, vì người đánh mõ nếu có trường canh vững chắc, biết điều tiết âm thanh nhanh chậm hợp lý, thì tinh thần đại chúng rất phấn chấn, đọc kinh ít thấy mệt.
Đối với các Tự viện Miền Nam Việt Nam thì mõ được để bên trái trước chánh điện từ ngoài nhìn vào, bên phải là chuông gia trì. Còn Miền Bắc thì ngược lại.
Nhìn chung, trong sinh hoạt hằng ngày của một tòng lâm, lời kinh tiếng kệ ngân vang, với giọng phạm âm hùng lực được uyển chuyển lên xuống trên nền nhịp mõ điều đặn khoan thai. Lúc ấy, làm cho lòng người trở nên thanh thản, vơi bớt những nỗi phiền muộn sầu lo, như đang thật sự trở về với bản tánh thanh tịnh xưa nay sẵn có./.
Lặng nghe tiếng mõ vang đều
Kinh hành niệm Phật sớm chiều tụng kinh
Các thời công khóa chuyên tinh
Não phiền giũ bớt xét mình tỉnh tâm.
Tại sao mõ được làm giống hình con cá ?
Trong bộ sách Sắc Tu Thanh Quy Pháp Khí, về chương mộc ngư có chép :
Lời tương truyền :
Loài cá là loài luôn thức chứ không bao giờ ngủ và rất hay hoạt động.
Vì vậy khi mõ được chạm trổ theo hình con cá, với thâm ý là muốn thức tỉnh con người cũng như chúng hữu tình đang còn trong mê muội, u tối và trầm luân…
Là hãy mau mau tỉnh cơn mê.
Cũng trong sách Chính Ngôn đời nhà Đường có chép :
Một hôm có vị cư sĩ đến hỏi một Trưởng lão ở Thiên trúc rằng :
Tại sao các Tăng xá đều có treo mõ?
Trưởng lão trả lời : Vì để cảnh tĩnh chúng Tăng tại Tăng xá hay tự viện ấy.
Vị cư sĩ hỏi tiếp : Nhưng tại sao lại tạc hình con cá ?
Trưởng lão lúc ấy không trả lời được.
Cư sĩ lại hỏi Ngài Hộ Biện, và được Ngài giải thích rằng :
Loài cá là loài không bao giờ nhắm mắt và thích hoạt động.
Cũng vì muốn cho người tu hành ngày đêm quên ham ngủ, gắng công tu tập, để mau chứng đạo quả….
Nên mõ được tạc hình con cá có ý là vậy.
Vậy mõ có mấy loại ?
Mõ có hai loại chính, và đều được tạc theo hình con cá :
Loại một là : Loại được tạc có hình bầu dục
Dùng để khi tụng kinh, điều khiển buổi lễ lúc đông người cùng tụng cho được nhịp nhàng, mà không bị lộn xộn,…
Loại hai là : Loại được tạc có hình điếu :
Thường khi treo ở nhà trù, dùng để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác.
Ngoài ra cũng có một loại mõ rất nhỏ dùng để Chư Tăng đi kinh hành gọi là nhiễu Phật.
Tiếng mõ vừa giữ cho buổi lễ được trang nghiêm, lại vừa giúp cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành lễ.
Bởi thế người đánh mõ gọi là duyệt chúng, tên này gọi là làm đẹp lòng mọi người trong lúc cùng tụng kinh với nhau.
Và để đánh được chuông mõ thì cũng phải học hành hẵn hoi, đúng điệu đúng cú pháp của nó, chứ không được đánh bừa.
Cái này quý vị phải đến chùa hoặc tìm hiểu những vị đã biết đánh mà học.
Thôi, chúc các vị buổi sáng, một ngày mới với nhiều năng lượng, an lạc.
Nam Mô Thường An Lạc Bồ Tát Ma Ha Tát.
Cư sĩ Nhuận Hòa st
Cái mõ Tiếng Anh
Dịch sang tiếng anh mõ là gì ?
– Wooden bell, bamboo tocsin
Những mẫu câu tiếng Anh ví dụ
- 1. Phải, tôi chưa vui như vầy từ hồi còn tụng kinh gõ mõ.
- Yeah, and I haven’t had fun like this since I was a monk.
- 2. Không, tôi đã tự hỏi còn những ai khác mà anh chĩa mõ vào.
- No, I’ve been wondering who else you’ve been flapping your gums to.
- 3. Viên mõ làng thông báo ai giao thiệp với Nhân-chứng Giê-hô-va sẽ bị phạt tiền.
- The town crier announced that anyone who had dealings with Jehovah’s Witnesses would be fined.
- 4. Thường thường chúng ta thốt ra những lời này một cách dịu dàng chứ không khua chiêng gõ mõ.
- Usually we speak these words softly, unaccompanied by brass bands.
- 5. Người gõ mõ và báo chí cho tôi biết có nguồn thuốc súng mới chất lượng cao trong thành phố.
- The bellmen and the newspapers tell me there’s a new source of prime grade powder in town.
- 6. Đương nhiên , Gears đã có sẵn từ khi bắt đầu , và Google tiếp tục khua chiêng gõ mõ các ứng dụng Web.
- Naturally , Gears was built in from the outset , and Google continues to bang the Web-applications drum loudly .
Khôn như mõ – Tham như mõ là gì?
Có một bộ phận người làm việc đặc biệt trong đời sống làng việt xưa, đấy là “thằng mõ”. Đó là người truyền tin, mặc dù vậy đây là nghề được coi là thấp hèn nhất. Người rao mõ, thường gọi là “thằng mõ”, có vai trò quan trọng trong thông tin truyền khẩu của Việt Nam qua nhiều thế kỉ, là “chân rết” trong hệ thống thông tin xưa. Họ đứng ngoài các cuộc tranh chấp, các phe, giáp trong làng. Mõ gần gũi với chức dịch nên biết rõ nội dung tranh chấp giữa các cá nhân hay dòng họ, nhưng không ủng hộ một phe phái nào, Mõ không có hành vi tiêu cực trong đời sống cộng đồng. => Khôn như mõ.
“Mõ” trong đời sống làng xã Việt Nam xưa – Bùi Hữu Cường – VNH K08 Đại Học Quảng Nam
Người Việt Nam ta thường có tính “sĩ diện” rất cao. Sợ bị mang tiếng là keo kiệt nên nhanh chóng “bố thí” thêm để mõ kia không “đứng ì” trước cổng nhà mình nữa. Khi cảm thấy bằng lòng thì gia đình Mõ mới lại “rồng rắn” đến nhà khác. Từ đó điển tích “tham như mõ” mới được người đời gắn cho Mõ một cách châm biếm.
Đừng tham như Mõ – https://songtre.com.vn › dung-tham-nhu-mo-p2110
Mộc Minh – Mộc Minh Tử
Mõ hay Mộc Minh là một pháp cụ bằng gỗ, gồm hai phần là một cái bầu và một cái dùi gõ vào bầu để tạo ra âm thanh.
- Phần bầu thì rỗng ruột, có lỗ hở tròn hoặc khe dài để âm thanh phát ra vang rõ. Trên bầu có một phần nhô ra làm tay cầm, tiện việc cầm nắm.
- Phần dùi là một thanh gỗ nhỏ, có khi được bọc vải ở đầu gõ để âm thanh được trầm tĩnh dễ nghe không bị chát.
Mộc Minh Tử là một bộ mõ được dùng lâu năm, hấp thụ linh khí Thiên Địa, linh khí thiêng liêng giữa đức tin hành giả dùng mõ và các bản kinh chú, nên thức tỉnh tánh linh, có thể thị hiện thân ảnh nhân dạng ở linh giới gọi là Mộc Minh Tử.
Mộc Minh Tử là anh linh thuộc Bộ Hỷ Lạc Thiên, nhóm Vật Loại Hồn.
* Hình dạng và tính chất đặc trưng
Bộ mõ thường có kích thước cỡ lòng bàn tay, vừa tay người cầm nắm di chuyển tiện dùng.
Đối với chùa chiền, cơ sở thờ tự đình đền miếu mà có dùng mõ thì bộ mõ thường lớn cỡ đường kính 30-50 cm.
Người ta dùng mõ để lấy nhịp phách khi tụng đọc, ngâm nga thi kinh. Nhất là những buổi lễ trì tụng kinh chú có nhiều người tham gia thì việc dùng mõ lấy nhịp cho tập thể là điều nên làm để giữ cho cả đàn lễ được hòa nhịp điệu câu kinh tiếng kệ.
Mõ và chuông cầm tay còn có tác dụng tạo nên âm thanh xua đuổi tà khí, đánh động các loài động vật khi hành giả bước đi trên đường. Việc này giúp cho hành giả đi đường, nhất là đường rừng được an toàn, tránh phải gặp gỡ các loài thú đang rình mồi, tránh giẫm đạp côn trùng bò sát nhỏ.
Tiếng mõ cũng giống như tiếng chuông, tiếng trống, có thể giúp cho người nghe giữ được thân tâm thanh tịnh, định tâm tỉnh trí hướng về Đạo pháp. Hành giả hay chư linh nghe tiếng mõ nhịp nhàng ấm áp giúp tránh sự loạn động phân tâm với các việc diễn ra quanh mình, hay tự trong tâm trí mỗi người phát sinh ý niệm loạn động.
Mộc Minh Tử
Mộc Minh Tử thường thị hiện thân ảnh nhân dạng, có xu hướng hiện thân hóa hình giống dáng dấp, tính cách và giới tính người thường dùng mõ ấy.
Thân khoác áo đạo bào trắng hoặc vàng, tay mang theo bộ mõ hình dạng bản thể của mình. Có khi trên thân ảnh ấy mang theo mấy vật dụng được đặt chung với mõ như là bồ đoàn đặt mõ, khăn trùm trên mõ, dây chuỗi hạt quấn quanh mõ, dây thừng làm bùa quấn quanh mõ, phù điêu hoa văn trên thân bộ mõ, quyển kinh điển đặt cạnh hay thường được trì niệm với bộ mõ.
Mộc Minh Tử là anh linh trợ duyên cho hành giả tu tập tinh tấn, nên có các khả năng như là tịnh hóa năng lượng trong không gian, tịnh hóa thân tâm chúng sinh nghe thấy tiếng mõ.
Mộc Minh Tử có thể phát ra tiếng kêu cốc cốc ấm áp như tiếng gõ mõ kêu vang, lại còn có thể tự mình trì niệm, ca ngâm mấy bài kinh chú người dùng mõ thường xuyên trì niệm. Vì hành giả khi dùng mõ luôn để tâm ý mình vào lời kinh sao cho câu kinh kệ phát ra hòa được nhịp điệu của tiếng gõ mõ, nên bộ mõ ấy thấm nhuần kinh điển thường được dùng.
Mộc Minh Tử thuộc Hỷ Lạc Thiên nên toàn thân phát ra minh khí, an lạc khí. Chúng sinh tiếp cận tự nhiên thấy an vui. Tà khí, ám khí, tà linh khi đến gần cũng sẽ được tịnh hóa, khó xâm hại vào pháp giới có Mộc Minh Tử an trú.
Tam Giới Toàn Thư 10