Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ – Ngọc Hoàng Thượng Đế – Đại La Thiên Đế
* Nguồn gốc
– Khởi nguyên vũ trụ, từ khí Hư Vô phát xuất một khối ánh sáng vĩ đại mang năng lượng vô cùng vô tận gọi là Đại Linh Quang hay Thái Cực Quang, tạm gọi là Cội Đạo. Lúc bấy giờ, khối ánh sáng ấy phân tánh hóa sanh, biến hiện nên thân ảnh ba vị tận thiện tận mỹ đầu tiên là
– Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế xuất hiện chính là việc các dòng khí âm dương, năng lượng thanh nhẹ và trọng trược được phân định rõ ràng cụ thể thành Tam Giới.
- + Khí thanh nhẹ hình thành nên các cõi giới vô hình thuần khiết, được gọi là Thượng Giới.
- + Khí trọng trược kết tụ lại tạo nên các tinh cầu, tinh vân, thiên thạch hữu hình trong vũ trụ, gọi chung là Hạ Giới.
- + Bầu khí quyển của các cõi Hạ Giới, hay nơi tiếp giáp giao nhau giữa hai cõi Thượng Giới và Hạ Giới được gọi là Trung Giới, có năng lượng âm dương hỗn độn.
Các cõi trong khắp Tam Giới này tồn tại theo quy luật vận hành riêng biệt của âm dương luân chuyển thường biến, vô thường nhưng theo một trật tự chặt chẽ nghiêm ngặt. Nhờ vậy, chu kỳ chuyển động của các tinh tú, tinh cầu đều ổn định theo đúng quỹ đạo của nó, không bị rối loạn mà phát sinh những sự cố va chạm nhau dẫn đến phát nổ và hủy diệt.
* Tam Giới khởi nguyên có các cõi giới sau:
– Cửu Trùng Thiên là 9 tầng lớp thanh tịnh của Thượng Giới, phát xuất từ Cội Đạo cho đến Hạ Giới. Bên trong Cửu Trùng Thiên tồn tại Tam Thập Lục Thiên, tức 36 cõi Thiên Giới khác nhau chia theo tứ phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
– Kế đến có Tam Thiên Thế Giới là 3000 tinh tú, phân bố khắp cõi Hạ Giới hữu hình. Thêm nữa thì có Thất Thập Nhị Địa là 72 Địa Cầu. Trái Đất mà chúng ta đang sinh sống là Địa Cầu thứ 68, nằm ở phía Nam vũ trụ Tam Giới.
– Trung Giới, khoảng không gian tiếp giáp giữa Thượng Giới và Hạ Giới thì chia thành bốn khu vực rộng lớn gọi là Tứ Đại Bộ Châu, bao gồm Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiệm Bộ Châu và Bắc Câu Lưu Châu.
Như vậy, tổng quan có 3122 cõi giới khác nhau từ lúc vũ trụ được hình thành buổi sơ khai. Vũ trụ Tam Giới luôn vận hành, phát triển và sinh sôi nảy nở ngày một thêm nhiều, vô cùng vô tận do có chư vị cao trọng tu tập rồi tự mình thiết lập nên các cõi giới khác nhau, thuận tiện cho việc độ duyên muôn sinh an lạc, tinh tấn.
Các tôn danh tiêu biểu
Đức Từ Phụ là vị Cha lành đã đưa Tam Giới vào trật tự vận hành từ thuở sơ khai hỗn độn. Mỗi cõi giới khi vừa hình thành được Ngài phân tánh hóa sanh, biến hiện nên một vị Thượng Đế cai quản cõi giới ấy. Như vậy có tất thảy là 3122 thị hiện tướng, hóa thân khác nhau của Ngài.
Mỗi hóa thân linh diệu ấy đều có một tôn danh riêng biệt. Trong số đó là 7 tôn danh lớn thường được dùng để chỉ về Ngài.
-
Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng
Đại La Thiên là cõi Thiên Giới đầu tiên xuất hiện xung quanh khối ánh sáng Thái Cực. Thế nên cõi này còn được gọi là cõi Thái Cực, vị cai quản cõi này là Đức Đại La Thiên Đế, còn được biết đến với tôn danh Thái Cực Thánh Hoàng.
-
Ngọc Hoàng Thượng Đế
Nơi cõi Thái Cực có Bạch Ngọc Kinh là kinh đô được hình thành bởi khí chất thanh nhẹ, thuần khiết như ngọc. Để đi vào Bạch Ngọc Kinh thì có một cánh cổng hoàng kim, được gọi là Huỳnh Kim Khuyết. Vậy nên muôn sinh tôn kính, gọi vị cai quản nơi đây là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.
-
Đức Từ Phụ hay Đức Chúa Cha, Đức Chúa Trời
Ngài chính là vị đã thiết lập nên trật tự vận hành trong Tam Giới, được hiểu như là Đấng sáng tạo nên muôn vật loại, nuôi dưỡng cho muôn loài sinh trưởng và phát triển tinh tấn. Thế nên muôn sinh thương mến, gọi Ngài là vị Cha Lành đáng kính, Đức Đại Từ Phụ đó vậy.
-
Đức Chí Tôn
Ngài là hiện thân của khối năng lượng Thái Cực vĩ đại, tối cao tối thượng. Vậy nên Tam Giới xưng tán, tôn bái Ngài là Đức Chí Tôn đầy lòng từ bi hòa ái.
-
Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn
- Khung giống như không vậy, chỉ về khoảng không gian sâu thẳm, to lớn vĩ đại vô cùng.
- Huyền Khung Cao Thượng chỉ về nơi hư không tịch mịch, vắng lặng thanh tịnh, lại tối cao tối trọng, huyền diệu chẳng thể nghĩ bàn.
- Đại Thiên Tôn là vị Thiên Đế tôn kính, tối cao tối thượng.
Ngài xuất hiện từ thuở hư vô, vũ trụ chưa có chi cả. Nhờ vào sự an bài sắp đặt hai khí Âm Dương trật tự với nhau mà vũ trụ này nên hình, vận hành tinh tấn thường biến. Thế nên Tam Giới thành kính gọi Ngài với tôn danh vi diệu như vậy.
-
Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, chư vị trọn lành nguyện đưa vạn loại sinh linh hữu tình trở về với Đạo, hiệp quy vạn giáo về một gốc là Cội Đạo với tôn chỉ Vạn Giáo Đồng Nguyên, từ Hư Vô mà biến hiện nên muôn vật loại. Ngài dùng huyền nhiệm cơ bút, giáng điển cho Đồng Tử là phàm nhân nơi thế gian thuyết giảng về việc tu Chân Đạo mà trở nên tận thiện tận mỹ, sớm ngày quy hồi nguồn cội.
Nơi Hạ Giới chúng sinh chia rẽ nhau về vấn đề đức tin, khác sắc áo tôn giáo mà dễ rời xa nhau, tranh đấu cùng nhau. Vậy nên Ngài dùng danh hiệu
- Cao Đài tượng trưng cho Nho Giáo,
- Tiên Ông tượng trưng cho Tiên Giáo,
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát tượng trưng cho Phật Giáo
làm tôn danh gọi về vị đã hóa sinh nên muôn loài muôn vật, lưu truyền Đạo Pháp từ thuở Khai Thiên Lập Địa. Như thế có thể cho chúng sinh hiểu rõ được Vạn Giáo Đồng Nguyên mà hiệp quy đức tin Tam Giáo cùng hướng về một nhà, một gốc là Cội Đạo.
Hình dạng, tính chất đặc trưng
* Khi thị hiện thân ảnh là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế
– Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mang dáng dấp của vị nam nhân khoảng hơn năm mươi với vẻ ngoài vừa nhân từ phúc hậu, lại vừa oai nghiêm cương trực. Toàn thân Ngài lan tỏa ánh đạo quang sắc trắng và vàng đan xen lẫn nhau, ấm áp nhẹ nhàng thuần khiết vô cùng. Ngài khoác trên mình lớp đạo bào màu hoàng kim óng ánh, rực rỡ như ánh bình minh vừa ló dạng nơi chân trời.
– Trên đỉnh đầu Ngài có chiếc Cửu Trọng Quan, là một vương miện bằng vàng ròng có những sợi châu ngọc lấp lánh buông xuống phía trước, biểu trưng cho quyền uy tuyệt đối của Ngài trong Tam Giới.
– Ngài thường mang bên mình chiếc Thiên Bình, một cái cân hoàng kim với hai bàn cân nhỏ nhắn đại diện cho thiện ác nghiệp nằm gọn trong lòng bàn tay. Cân này tượng trưng cho sự công bình, uy nghiêm và công chánh của Ngài khi gìn giữ sự vận hành cân bằng của Tam Giới.
Khi hữu sự cần giúp cho một chân hồn quán chiếu được nhân duyên nghiệp quả của mình, Thiên Bình này sẽ biến thành to lớn trước mặt họ, bao điều thiện ác hành tàng họ đã từng làm trong một kiếp sinh đều được tái hiện rõ ràng cụ thể. Trong thoáng chốc, hai cán cân ấy sẽ nghiêng về phía thiện nghiệp hay ác nghiệp để từ đó họ quyết định vận mệnh của mình sẽ chuyển sinh, tồn tại ra sao sau khi thấu rõ nhân duyên nghiệp quả.
– Một bảo vật trân quý khác mà Ngài thường để trong tay áo đạo bào của mình, chính là quyển trục Thiên Thư. Thiên Thư này chỉ vỏn vẹn có bốn chữ, thể hiện quy luật vận hành của Đạo là Bác Ái Công Bình. Nhờ vậy, mọi thứ được giữ gìn theo đúng chu kỳ trật tự nhất định mà chúng sinh gọi là Luân Hồi Nhân Quả. Tuy đơn giản là thế nhưng Luật Thiên Điều, Thiên Thư đã định chẳng sai chạy bao giờ.
* Khi thị hiện thân ảnh là Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ
– Đức Từ Phụ mang dáng dấp của vị lão nhân, gương mặt nhân từ độ lượng, lan tỏa ánh sáng dịu dàng chan hòa khắp muôn nơi. Nhìn vào gương mặt ấy, chúng sinh sẽ nhìn thấy những nét gần gũi giống với người cha ruột đã sinh thành, dưỡng dục mình nơi dương thế.
– Ngài để tóc xõa tự nhiên, hoặc trên đỉnh đầu búi tóc gọn gàng, có giắt một chiếc trâm cài hình đóa liên hoa hàm tiếu. Ở giữa liên hoa là hình ảnh Thiên Nhãn, biểu tượng của ánh sáng minh triết từ bi và trí tuệ. Thiên Nhãn ấy sáng soi, chan chứa làn minh khí an lạc ấm áp vô cùng.
– Toàn thân Ngài khoác đạo bào màu trắng, nơi ngực áo Ngài ẩn tàng hai sắc bạch kim đan xen lẫn nhau, lập lòe ẩn ẩn hiện hiện. Đó là biểu tượng của từ bi tâm thuần khiết nhân hậu, là tình yêu thương bao la vô cùng vô tận, luôn tha thứ độ lượng với con cái của mình là vạn loại sinh linh trong Tam Giới.
Phương thức tương thông, cảm ứng
– Lễ kỷ niệm Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế được dân gian chọn ngày mùng 9 tháng giêng âm lịch, thiết lễ cúng Trời, thành kính tri ân Đấng Tạo Hóa dưỡng dục muôn sinh. 9 là số thuần dương tối cao, 1 là số thuần dương đầu tiên nên chọn 9 tháng giêng làm ngày vía Đức Từ Phụ đó vậy.
– Người có tín tâm thiện lành, ý hướng tu tập trở nên Chân Thiện Mỹ, hữu duyên có thể được nhìn thấy Ngài. Lúc bấy giờ, nhờ an lạc khí từ Ngài dịu dàng lan tỏa khiến cho người ấy cảm ứng được, liền thấy gần gũi thân thương, an yên bình lặng. Tâm tình cũng từ đó mà lương thiện, lành tính trong các việc đối nhân xử thế với đời.
Thi văn, kinh điển
* Ngọc Hoàng Thượng Đế Chân Kinh
Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng
Hóa dục quần sanh, thống ngự vạn vật
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh
Nhược thiệt nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa
Thị không thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh
Thời thừa Lục Long du hành bất tức
Khí phân Tứ Tượng oát triền vô biên
Càn kiện cao minh, vạn loại thiện ác tất kiến
Huyền phạm quảng đại, nhất toán họa phước lập phân
Thượng chưởng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giới
Hạ ốc Thất Thập Nhị Địa, Tứ Đại Bộ Châu
Tiên Thiên Hậu Thiên, tịnh dục Đại Từ Phụ
Kim ngưỡng cổ ngưỡng, phổ tế tổng pháp tông
Nãi Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần chi Quân
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi Chủ
Trạm tịch Chân Đạo, khôi mịch tôn nghiêm
Biến hóa vô cùng, lũ truyền Bảo Kinh dĩ giác thế
Linh oai mạc trắc, thường thi Thần Giáo dĩ lợi sanh
Hồng Oai Hồng Từ Vô Cực Vô Thượng
Đại Thánh Đại Nguyện Đại Tạo Đại Bi
Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng
Tích Phước Hựu Tội Đại Thiên Tôn.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Đức Lữ Động Tân
Diễn nghĩa
Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng là tôn danh của Đức Từ Phụ, ý nghĩa là vị Thiên Đế nơi tầng Đại La Thiên, có tôn danh Thái Cực Thánh Hoàng. Ngài sáng tạo và nuôi dưỡng vạn vật, quần linh.
Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết là hai cảnh giới nơi cõi Đại La Thiên, tuyệt đẹp nguy nga tráng lệ, vi diệu vô cùng.
Sự tồn tại của Ngài như có như không, chẳng nói lời nào mà lại sanh biến, trưởng dưỡng nên muôn vật loại. Lại đem các sự tồn tại ấy vận hành theo những quy luật ước định của vũ trụ, gọi là Luật Nhân Quả và Tiến Hóa vậy.
Ngài thường ngự trên cỗ xe có 6 vị Long Thần, du hành không ngừng nghỉ khắp nơi. Lục Long này được hiểu chính là tượng trưng cho Trời, được thể hiện là 6 vạch dài của quẻ Thuần Càn trong Bát Quái Cửu Cung Đồ.
Lại nói về nguồn gốc của Tam Giới:
Từ một khí Hư Vô
Phát sinh thành Thái Cực
Thái Cực phân Lưỡng Nghi
Lưỡng Nghi hóa Tứ Tượng
Tứ Tượng kết hợp nhau
Hóa sinh thành Bát Quái
Bát Quái hợp Hư Vô
Gọi Bát Quái Cửu Cung
Sinh biến vô cùng tận.
Ngài có đức hiếu sinh, từ hòa và công bính vô tư, mọi sự thiện ác trong vũ trụ hễ khởi rung động lên thì Ngài liền biết, vì cả vũ trụ này cũng chính là Ngài vậy. Quyền năng của Ngài là không thể nghĩ bàn, chỉ một lằn tư niệm đã có thể thấu suốt hết lẽ vận hành nhân quả, thiện ác nghiệp duyên của chúng sinh.
Ngài cai quản tất thảy 36 cõi Thiên, 3000 Thế Giới, 72 Địa Cầu, Tứ Đại Bộ Châu khắp Tam Giới. Đây chính là vũ trụ pháp giới khởi nguyên do Ngài sáng tạo nên.
Tín ngưỡng từ xa xưa, cho đến tín ngưỡng ngày nay, các sắc dân, tôn giáo đều tôn thờ Ngài với nhiều hình thái khác nhau. Ngài là chúa tể của tất thảy mặt trời, trăng, sao và các tinh thể trong vũ trụ. Cũng là vị chưởng quản tất thảy chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Sự tồn tại của Ngài uy nghiêm, tịch tĩnh mà lại thâm sâu huyền nhiệm, chân thật thiện lành vô cùng. Ngài biến hóa nên muôn hình tướng, tên gọi khác nhau, nhằm truyền bá các bản kinh văn giác thế, đưa chúng sinh về bến bờ an lạc. Sự cảm ứng linh thông của Ngài vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, thường khai mở nên các Đạo Giáo dạy người biết thờ kính Thần Minh, đem phúc lạc cho chúng sinh.
Ngài là Đấng có lòng từ bi quảng đại, oai nghiêm vô cùng, tối cao, tối thượng, linh diệu vô biên, nguyện hành vĩ đại. Tôn danh đầy đủ của Ngài là Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Tích Phước Hựu Tội Đại Thiên Tôn.
* Các bài thơ tiêu biểu Đức Từ Phụ từng giáng cơ dạy Đạo
Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi
Đâu cần Hạ Giới vọng cao ngôi
Sang bần trối mặc, tâm là quý
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.
Bài thơ này nói rõ về nơi ngự của Đức Từ Phụ từ thuở Khai Thiên Lập Địa là Bạch Ngọc Kinh.
Ngài đâu cần chúng sinh tôn thờ hay đặt để ở nơi tôn nghiêm cao quý, sự vọng cầu bên ngoài của thế nhân là không cần thiết. Tất thảy sự thờ cúng, thiết lễ dù lớn nhỏ cũng đều không quan trọng, cần nhất chính là Chân Tâm thiện lương của người thờ cúng. Tâm lành chánh trực chính là của lễ quý báu dâng lên cho Đức Từ Phụ vậy.
Tâm thiện lương, thành kính của hành giả chính là tòa sen nơi Ngài ngự trong lòng mỗi người. Chẳng phải Ngài ngự nơi Thiên Bàn hay đền thờ uy nghiêm lộng lẫy, mà chính là đền thờ thiêng liêng nơi Chân Tâm mỗi người vậy.
__
Tròi trọi mình không mới thiệt bần
Một nhành sen trắng náu nương thân
Ở nhà mượn đám mây xanh thẳm
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần
Bố hóa người đời gầy mối Đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào đất dậy, trời thay xác
Chư Phật Thánh Tiên xuống ở trần.
Qua bài thơ này, Đức Từ Phụ ngợi khen hạnh đức tiết kiệm, buông xả tiền tài, danh lợi quyền. Thiện tín giả cần lấy Chân Tâm thiện lương, thuần khiết làm phương tiện trên bước đường hành Đạo của mình. Người hành giả bữa đói bữa no như cánh hạc tự do tự tại giữa đời, lấy màn trời chiếu đất làm nhà là chuyện bình thường vậy.
Đức Từ Phụ đã đến thế gian này gầy dựng mối Đạo nhằm giáo hóa nhân loại hướng về đạo đức, thiện lương chân chánh. Ngài đã đưa chư Thần Thánh Tiên Phật cùng nhập trần trong nhiều đời kiếp, làm môn đệ của Ngài trong nhiều giáo phái tu tập khác nhau. Chư vị ấy chính là các nhân tố tiên phong trong việc thực hành nhân nghĩa giữa đời loạn lạc.
Khi cơ xoay chuyển của địa cầu này đến lúc thay da đổi thịt, thiên tai dịch bệnh chiến tranh sẽ làm cơ tận diệt chúng sinh một lần nữa. Khi ấy, chư Thần Thánh Tiên Phật lại nhập trần một lần nữa, cùng nhau chung tay gầy dựng lại thế giới này. Những người, vật còn sống sót sau đại kiếp nạn của địa cầu cùng với chư vị nhập trần đầu kiếp đều là giống dân mới, được gọi là Minh Đức, Tân Dân, hay giống dân Thần Thông Nhân. Họ có đủ những hạnh đức, từ bi, cảm ứng linh thông với Tam Giới, sống thiện lương nhân nghĩa giữa đời.
__
Thành tâm niệm Phật
Tịnh, tịnh, tịnh, tịnh
Tịnh là vô nhất vật
Thành tâm hành Đạo.
Bài thơ này nói về việc tu tập của hành giả cần lấy tâm chân thành, giữ luôn thanh tịnh, không để vướng mắc các thế tục tình trường. Tịnh là vô nhất vật, tức là không có vật chi là nhất, mọi thứ đều như nhiên, bình đẳng, vô thường. Hành Đạo với tâm tình thuần lương, vô nhất vật như vậy thì mới có ngày thành tựu.
__
Hữu văn hữu võ hữu phong ba
Nhật Nguyệt Âm Dương tứ quý hòa
Thiên Địa Càn Khôn kiêm vạn loại
Nhân quần thảo mộc cập chư hoa
Ly kỳ cảnh vật cao nhân thưởng
Đáo để san hà thượng khách ca
Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo
Kỉnh ngô vi chủ, Đạo như hà.
__
Ngọc ẩn thạch kỳ, ngọc tự cao
Hoàng Thiên bất phụ chí anh hào
Giáng ban phúc hạnh nhân đồng lạc
Thế tạo lương phương thế cộng giao
Giáo hóa nhân sinh cầu triết lý
Đạo truyền thiên hạ ái đồng bào
Nam nhân tỉnh cảm sanh cao khí
Phương tiện tu tâm kế diệt lao.
__
Bay đến bờ dương phụng gáy chiều
Thần Tiên giáng thế biết bao nhiêu
Trở chân ít kẻ lo đi ngược
Bước đọa xem qua dấu dập dìu.
Dập dìu lắm kẻ ngó Thiên Đường
Buổi thế không lo níu nhành dương
Dương thạnh thì hay đời mạt kiếp
Nêu thân ở giữa cuộc tang thương.
Tang thương đã biến cuộc hầu gần
Bắc Hải rồi sau lại hóa sân
Thanh thế con người toan cải ác
Tùng theo nhân cách đặng phong Thần.
Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô?
Mượn thế đặng toan phương giác thế
Cũng như nương viết của chàng Hồ.
__
Bát Nhã con mau trở mái chèo
Thìn lòng thương lấy chúng sanh eo
Trăm năm chưa bằng nên một đức
Tấn nẻo chông gai khá lựa lèo
Lựa lèo mượn thế độ nhân sanh
Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành
Ám muội thì nhiều mưu trí ít
Đường Tiên chẳng bước, đọa thì đành.
Tam Giới Toàn Thư
Nhiên Thiên Nói thế tức là sau này, nếu khoa học con người phát triển vượt bậc thì có thể chế tạo tàu vũ trụ bay đến thượng giới à?
TGTT Không phải nè quý bạn. Thượng Giới là cõi giới vô hình, không thể đi đến bằng xác thân hữu hình, phương tiện máy móc hữu hình dù hiện đại tân tiến tới đâu Đó là cõi giới thanh tịnh chỉ phù hợp với các chân hồn thiện lành, tinh tấn.
Nguyễn Hoàng Minh Quân các giới phân cách với nhau không phải chỉ bằng không gian đâu ạ, khoa học có cái gọi là “chiều không gian” đó