Hộ Pháp Vi Đà
- Đức Ngự Mã Thiên Quân
- Đức Vi Đà Thiên Tôn
- Đức Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ
- Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Cao Đài Đại Đạo
* Nguồn gốc
– Đức Ngự Mã Quân hay Ngự Mã Thiên Quân là một vị Thiên Quân làm thị giả cho Đức Chí Tôn, tức Đức Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng.
– Ngài là vị Đại Nguyên Súy (soái) thống lãnh tất thảy chư Thần Tiên của Tam Châu Bát Bộ hộ trì Chánh Pháp, phụ trách tiên phong dẫn đường mở lối trong các chuyến du hóa truyền Đạo của Đức Chí Tôn khắp các cõi Tam Giới.
— Tam Châu là nói về Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Đông Thắng Thần Châu.
— Bát Bộ là nói về Chánh Thần Bát Bộ cai quản sự vận hành Tam Giới gồm:
- Lôi Bộ, vị chưởng quản là Đức Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn
- Thủy Bộ, vị chưởng quản là Bắc Đẩu Ngũ Khí Thủy Đức Tinh Quân
- Hỏa Bộ, vị chưởng quản là Nam Phương Tam Khí Hỏa Đức Tinh Quân
- Thái Tuế Bộ, vị chưởng quản là Chấp Niên Tuế Quân Thái Tuế
- Ôn Bộ, vị chưởng quản là Chủ Chưởng Ôn Hoàng Hạo Thiên Đại Đế
- Đậu Bộ, vị chưởng quản là Chủ Đậu Chánh Thần Nguyên Quân
- Phúc Bộ, vị chưởng quản là Kim Long Như Ý Chánh Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân Quân
- Đẩu Bộ, vị chưởng quản là Bắc Cực Tử Khí Chi Tôn Vĩnh Tọa Khảm Cung Đẩu Mẫu Nguyên Quân
— Lại có sự phân chia khác về Bát Bộ là nói về Bát Đẳng Chân Hồn từ Vật Chất Hồn, Thảo Mộc Hồn, Cầm Thú Hồn, Nhân Hồn cho đến Thần Hồn, Thánh Hồn, Tiên Hồn, Phật Hồn.
Như thế, quyền năng của Ngài chỉ chừa mỗi Bắc Câu Lưu Châu là không quản mà thôi. Vì Bắc Câu Lưu Châu là khu vực tự trị của chư vị Quỷ Vương ở các cõi giới khác nhau nơi Châu ấy.
– Ngài từng có kiếp giáng trần chuyển thế vào cõi Hạ Giới này thời Thương Chu đại chiến khoảng 3300 năm trước, Ngài là Vi Hộ đệ tử chân truyền của một trong Thập Nhị Đại Tiên Xiển Giáo, Đức Đạo Hành Thiên Tôn. Sau khi giúp nhà Chu chiến thắng nhà Thương, Ngài được phong Thánh, là một trong Thất Thánh lúc bấy giờ.
– Ngài từng chiết linh giáng trần chuyển thế một lần nữa vào cuối thế kỷ 19 ở Việt Nam, thế danh là Phạm Công Tắc sinh năm 1890 – 1959. Sau kỳ ngộ với Đức Cao Đài Ngọc Đế tức Đức Từ Phụ, Đức Đại La Thiên Đế, Ngài trở thành một trong các môn đệ đầu tiên trong Hội Thánh, giúp khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài vào năm 1926.
Ngài đắc phong Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ, trở thành một đồng tử đặc biệt giúp truyền bá Đạo Pháp qua cơ bút.
Ngài được Đức Từ Phụ hành pháp Trục Chân Thần, giúp cho phần thần thức của Phạm Công Tắc dễ dàng xuất ra trọn vẹn khỏi thân xác Ngài Phạm Công Tắc mà đi học hỏi trong Tam Giới. Việc ấy đồng thời giúp cho thân xác Ngài Phạm Công Tắc tinh khiết thanh tịnh để chân linh của Đức Vi Đà Thiên Tôn có thể giáng linh nhập thể trọn vẹn vào thân xác chiết linh của mình, thêm vào đó thì chân linh của Đức Di Lặc Vương Phật cũng có thể giáng điển độ duyên trong nền Đại Đạo.
Như thế, sau khi Đức Từ Phụ hành pháp Trục Chân Thần thì phần thân xác Ngài Phạm Công Tắc có ba phần linh thể cùng nhau luân phiên thị hiện ở các thời điểm khác nhau trong quá trình hành Đạo gồm
— Chân thần của Ngài Phạm Công Tắc với các mặt đời, tức là Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ chuyên phụ trách việc làm đồng tử thông công, phò loan thủ cơ chấp bút.
— Chân linh nguyên căn của Ngài Phạm Công Tắc là Đức Vi Đà Thiên Tôn tức Ngự Mã Quân hay là Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn, vị nắm quyền năng vô cùng lớn lao trong việc hộ trì Chánh Pháp.
— Chân linh Đức Di Lặc Vương Bồ Tát, là Giáo Chủ của Long Hoa Đại Hội thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chưởng Quản Cực Lạc Thế Giới, nắm quyền tuyển phong cho chư Thần Thánh Tiên Phật khắp Tam Giới có thể nhập được vào Cửu Trùng Thiên, Niết Bàn.
Năm 1934, sau nhiều biến cố thăng trầm của Cao Đài Đại Đạo, Ngài đắc phong phẩm vị Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài của nền Cao Đài Đại Đạo, được hiểu như là người nắm quyền hành tối cao nơi thế gian của Cao Đài Đại Đạo.
– Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là vị chức sắc có nhiều bài thuyết giảng, diễn văn nhất trong nền Cao Đài Đại Đạo trong quá trình hình thành và phát triển từ năm 1926 đến nay.
Ngài Phạm Công Tắc đăng tiên ngày mùng 10 tháng 4 năm 1959 âm lịch ở Phnôm Pênh – CamPuChia
– Trong nội ô khuôn viên Tòa Thánh Tây Ninh có một Hộ Pháp Đường, là nơi gìn giữ những kỷ vật của Ngài, có pho tượng Ngài đứng ở bao lơn dang tay ban phép lành cho muôn sinh.
* Hình dạng và tính chất đặc trưng
– Đức Vi Đà Thiên Tôn được chúng sinh Tam Giới tôn kính bởi đức độ, quyền năng vi diệu của Ngài trong Tam Giới.
Ngài sử dụng Bảo Pháp là Giáng Ma Xử, dùng hàng ma phục yêu hộ trì Chánh Pháp. Đây là cây gậy có ba chia, 9 khúc đoạn, giống với Kim Tiên của Đức Huyền Thiên Quân, thoạt nhìn có thể trông giống như một thanh kiếm gỗ vậy.
– Ngài thường thị hiện thân ảnh là một vị Thiên Tướng Chiến Thần Dạng, gương mặt nam nhân trung niên khoảng bốn mươi tuổi, nét mặt trang nghiêm thanh tịnh nhưng vẫn thấy rõ nét thuần lương đôn hậu, đôi mắt sáng, chân mày rậm, toàn thân khoác hoàng kim khôi giáp, sau lưng là bát lệnh kỳ tượng trưng cho phẩm vị Đại Nguyên Súy thống lĩnh Thiên Long Bát Bộ Chúng, hào quang hỏa diễm kim quang rực rỡ quanh mình.
– Trong Phật Giáo thì Đức Tam Châu Bát Bộ Vi Đà Thiên Tôn Hộ Pháp có vị trí rất quan trọng trong việc bảo vệ gìn giữ Chánh Pháp trước tà quyền, tinh quái. Ngài được tin thờ chung trong khối đức tin Nhị Thập Chư Thiên. Trong các chùa chiền, tôn tượng của Ngài thường được thờ ở trong khuôn viên trước Đại Hùng Bảo Điện, hoặc là được chạm khắc ngay cổng vào Bảo Điện, có khi thì được đặt ở gian thờ ngoại nghi trong Bảo Điện, hoặc là thờ riêng một gian ở Hậu Điện sau Đại Hùng Bảo Điện.
– Ở Tòa Thánh Tây Ninh Cao Đài Đại Đạo, tôn tượng của Ngài được đặt ở phần ngoại nghi trong Chánh Điện, thuộc khu vực Hiệp Thiên Đài, đối diện với Chánh Điện có thờ Thánh tượng Thiên Nhãn của Đức Từ Phụ. Tượng ở Tòa Thánh Tây Ninh có đặc trưng khác biệt với các tượng trong chùa Phật Giáo ở điểm là Ngài ngự trên Thất Đầu Xà, tượng trưng cho việc Chánh Pháp, Giới Luật trang nghiêm thanh tịnh chế ngự Thất Tình của hành giả vậy.
* Các thư tịch Ngài để lại cho đời là một công trình đồ sộ gồm:
- 10 bài Kinh Thế Đạo trong Kinh Cao Đài
- Phương Tu Đại Đạo
- Phương Luyện Kỷ
Thiên Thai Kiến Diện (1927), đây là tập thi trường thiên viết theo thể Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi, mỗi bài là nội dung có liên kết với nhau, kể về những sự mắt thấy tai nghe khi Ngài xuất Thần vân du các cõi Thiên.
Rất nhiều bài thuyết giảng, diễn văn được lưu truyền, được chư học giả trong Cao Đài Đại Đạo kết tập thành 7 quyển “Diễn văn và thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc”.
….………..
* Hai bài thơ Đức Lý Giáo Tông Thái Bạch Kim Tinh giáng điển tặng cho Đức Hộ Pháp
Việt thường hữu phúc xuất chơn quân,
Chuyển thế Chí Tôn dĩ định tuần.
Trị loạn Nam phương trừ mãnh hổ,
Thừa bình Bắc địa kiến Kỳ lân.
Hoàng triều hậu nhựt nghi tùng cổ,
Văn hiến tương lai khả hoán tân.
Thánh chúa hiền thần phò Tổ nghiệp,
Khải ca định phận tại thu phân.
(1 tháng 3 năm Mậu Tý)
Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,
Pháp luân thường chuyển máy Thiên Cơ.
Chưởng quyền cực lạc phân ngôi vị,
Quản suất càn khôn định cõi bờ.
Nhị kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ.
Hình hài Thánh thể chừ nên tướng,
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ.
Đôi điều về căn duyên của Đức Hộ Pháp
qua bài thơ của Đức Lý Giáo Tông và bài Kinh Đại Tường.
Bài thơ này được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ nói về căn duyên của Đức Hộ Pháp khi chúc mừng Ngài nhận chấp chưởng cả lưỡng đài hữu hình của Đạo Cao Đài là Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài.
Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ:
Đức Hộ Pháp là do chơn linh của Ngự Mã Thiên Quân, hay Ngự Mã Quân chiết linh giáng trần. Vị ấy theo hộ giá cho Đức Chí Tôn từ xa xưa, nay thì chiết linh nhập trần làm Phạm Công Tắc đóng vai trò là đồng tử quan tọng của Đức Chí Tôn từ khi khai mở Đạo Cao Đài qua huyền diệu cơ bút cầu Tiên.
Pháp luân thường chuyển máy Thiên Cơ:
Đức Hộ Pháp thường theo lệnh Đức Chí Tôn vận hành máy Thiên Cơ màu nhiệm trong việc truyền Đạo Pháp, độ dẫn muôn sinh linh.
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị:
Đây là vai trò của Đức Phật Di Lặc nơi Cực Lạc Thế Giới trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Long Hoa Đại Hội. Điển linh của Đức Di Lặc có khi giáng linh vào thân xác của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc để thực hành quyền năng tuyển chọn, ân phong chức phẩm cho các vị chức sắc.
Quản suất Càn Khôn định cõi bờ:
Đức Hộ Pháp Vi Đà Thiên Tôn là vị chưởng quản Tam Châu trong Tứ Đại Bộ Châu, chấp chưởng Bát Bộ Chánh Thần coi việc vận hành Thiên Điều, các việc lành dữ trong trời đất.
Nhị kiếp Tây Âu cầm Máy Tạo:
Đây là kiếp sinh với vai trò truyền Đạo của Đức Chúa Jesus. Đức Chúa Jesus cũng từng hiển lộ Bí Tích Thánh Thể nơi thân xác của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Trên hai lòng bàn tay và hai lòng bàn chân của Ngài có 4 đóa hoa sen hồng ẩn hiện, được một số người có duyên lành tiếp xúc gần với Ngài thì nhìn thấy tận mắt. Đó là ấn tích của Đức chúa Jesus đã từng bị đóng đinh trên thập giá.
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên Thơ:
Vào thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này thì Đức Ngài có duyên nắm quyền cả lưỡng đài quan trọng trong hệ thống hành chánh của Cao Đài Đại Đạo. Do vậy mà có nhiều người xưng tụng Ngài là vị Giáo Chủ Đạo Cao Đài. Nhưng thực tế thì danh từ Giáo Chủ này chỉ có thể được dùng đối với Đức Chí Tôn, còn với chức sắc theo đúng Tân Luật Pháp Chánh Truyền thì chỉ có Giáo Tông nắm quyền Cửu Trùng Đài và Hộ Pháp nắm quyền Hiệp Thiên Đài. Nên có thể gọi Ngài là Đức Hộ Pháp Chưởng Quản lưỡng đài, hay Chưởng Quản nhị hữu hình đài chớ gọi Ngài là Giáo Chủ thì không đúng Pháp Chánh Truyền lập Đạo do Đức Chí Tôn giáng dạy.
Hình hài Thánh Thể chừ nên tướng:
Câu này nói về công lao khổ cực của Đức Hộ Pháp suốt một thời gian dài gầy dựng Hội Thánh Cao Đài Đại Đạo.
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ:
Câu này muốn nhắc Đức Hộ Pháp về trách nhiệm quan trọng của mình. Gắng làm trọn phận sự để xứng với hồng ân của Đức Chí Tôn phó thác trong việc gầy dựng Quốc Đạo nơi Đại Việt.
….………………..
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là một người phàm trần được chính Đức Chí Tôn hành pháp Trục Chơn Thần để thân xác ấy được mở cửa thiêng liêng Huyền Quan Khiếu. Khi khai mở thân xác rồi, được Đức Chí Tôn trấn Thần, trấn Pháp nơi thân xác ấy thì điển linh của Đức Vi Đà Thiên Tôn tức Ngự Mã Thiên Quân có thể giáng nhập, lại có thêm điển linh của Đức Di Lặc Vương Phật cũng có thể giáng linh, rồi có ấn Chứng Bí Tích Thánh Thể của Đức Chúa Jesus để thể hiện tinh thần hòa hợp tâm linh, hòa đồng tôn giáo cũng như sắc tộc, nhìn nhận Tam Giáo Ngũ Chi đều Đồng Nguyên.
Như vậy một thân xác của Ngài Phạm Công Tắc người trần, có 1 phần Chơn Thần là chiết linh của Đức Vi Đà Thiên Tôn nhập trần đầu kiếp.
Thân xác ấy sau khi được làm phép thì có thêm điển linh của Đức Vi Đà Thiên Tôn nơi cõi Cực Lạc giáng trần hội căn.
Lại có thêm điển linh của Đức Di Lặc và Đức Chúa Jesus ấn chứng cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Khai Hội Long Hoa.
Một thân xác mà có 4 phần linh, gồm một chơn thần của thân xác ấy và 3 phần chơn linh tùy duyên giáng nhập để hành Đạo, thuyết Đạo.
….……………….
Bài Kinh Đại Tường do Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật giáng cơ ban cho Kinh Tận Độ cũng có nói về các việc liên quan đến căn duyên Đức Hộ Pháp:
Hỗn Nguyên Thiên dưới quyền Giáo Chủ
Di Lặc đương thâu thủ phổ duyên
Tái sanh sửa đổi chơn truyền
Khai cơ tận độ Cửu Tuyền diệt vong
Hội Long Hoa tuyển phong Phật Vị
Cõi Tây Phương đuổi quỷ trừ ma
Giáng linh Hộ Pháp Vi Đà
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh
Thâu các Đạo hữu hình làm một
Trường thi Tiên, Phật dượt kiếp khiên
Tạo đời cải dữ ra hiền
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.

Tiêu Diện Đại sĩ
Câu chuyện về Đức Tự Tại Thiên Tử thị hiện hình tướng Quỷ Vương độ duyên chúng sinh nơi các cõi âm
Thuở xa xưa, trong lúc Tự Tại Thiên Tử đi du hành nơi các cõi âm quang u tối của Trung Giới. Lúc bấy giờ, Ngài hữu duyên gặp chúng quỷ Dạ Xoa chìm đắm trong khổ não bởi những dục vọng về thần thông để tranh giành vị trí độc tôn. Lúc bấy giờ, Ngài khởi tâm từ bi muốn cứu độ chúng dạ xoa ấy nên liền thị hiện hình tướng Dạ Xoa Vương hung tợn, to lớn vô cùng.
Chúng quỷ nhìn thấy có một Quỷ Vương xuất hiện to lớn vĩ đại quá liền thuần phục Ngài, không còn tranh đấu thị hiện thần thông với nhau nữa. Nhờ vậy mà Ngài thuyết giảng cho họ thấu hiểu được việc chấp niệm vào thần thông khiến cho tâm thức khổ não, thị hiện hình tướng bất thiện chẳng đẹp đẽ gì bởi tham sân si ở nơi u tối thiếu sáng. Chúng quỷ nghe lời, buông xả chấp niệm ấy, hồi hướng tu tâm dưỡng tánh để chuyển sinh vào các cõi lành, thoát khỏi nơi u ám.
Sau khi hóa độ chúng Dạ Xoa ấy, Tự Tại Thiên tử từ biệt rời đi. Chúng quỷ xin được biết tôn danh quý tánh của Ngài, thì Ngài nói họ cứ gọi Ngài là Tiêu Nhiên Thiên Tử là được. Sau này, Ngài thị hiện hình tướng ấy để bảo hộ cho pháp đàn các buổi thuyết pháp của chư Thánh không bị xâm hại bởi tà ma ngoại lực. Chúng quỷ nhìn thấy thân ảnh hình tướng thị hiện của Ngài thì chẳng dám manh động quấy phá làm càng, mà còn cùng nhau hồi hướng, hộ trì cho Chánh Pháp.
………………………………..
Trong quá trình lưu truyền đức tin, từ Tiêu Nhiên được đọc trại thành Tiêu Diện. Tiêu Nhiên có nghĩa là tiêu sái, vắng lặng, nhàn dật, cũng gần giống nghĩa với Tự Tại. Vì Tự Tại Thiên Tử muốn giấu thân phận thật của mình trước chúng quỷ nên dùng tên tự như thế. Người đời cảm mến, thần phục trước đức từ bi độ lượng, thần thông quảng đại của ngài nên xưng tụng ngài là bậc Đại Sĩ, cũng giống với tôn danh Quán Âm Đại Sĩ, là một hóa thân khác của Tự Tại Thiên Tử vậy.
Ở các chùa hoặc đền thờ, người ta thường thờ hình tượng của Tiêu Nhiên Đại Sĩ ở phía sau cùng chánh điện, mặt quay vào pháp đàn để làm một vị Hộ Pháp bảo hộ cho tín chúng. Người ta còn hiểu theo hướng tượng trưng của hai hình ảnh là ông Thiện gắn liền với Vi Đà Thiên Tôn chuyên khuyến thiện hộ trì Chánh Pháp, và ông Ác là Tiêu Nhiên Đại Sĩ chuyên răn đe ngăn ngừa cái xấu ác tác quái.
Ân đức độ duyên chúng sinh của Đức Tiêu Nhiên Đại Sĩ hay còn có tôn danh khác là Tiêu Diện Thiên Tử được Nguyễn Du nhắc đến trong bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh ở đoạn là:
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Tam Giới Toàn Thư – 1711775722348323
Tìm kiếm có liên quan
- 2 vị Hộ pháp
- Tiểu sử Ngài Hộ Pháp
- Vi Hộ La ai
- Tiêu Diện Hộ Pháp
- Vi đà thiên wakasa
- Hộ pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát
- Thần chú Hộ Pháp Vi Đà
- Tượng Hộ Pháp bằng gỗ
- Sự tích ông Tiêu
- Cúng ông Tiêu
- Tiêu Diện Hộ Pháp
- Thần chú Tiêu Diện Đại Sĩ
- Lưỡi ông Tiêu có ý nghĩa/ tác dụng gì
- Cách cắt lưỡi ông Tiêu
- Thần lè lưỡi
- Lá cờ ông Tiêu Diện
- Thần chú Tiêu Diện Đại Sĩ
- Tiêu Diện Đại Sĩ chủ hán