Khởi duyên xây bàn cầu cơ
Ngày mùng 4 tháng 6 năm Ất Sửu (24.07.1925)
3 ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, cùng vài người bạn nữa trong Hội Thi Xã đến nhà ông Cao Quỳnh Diêu, là anh ruột của ông Cư, rủ ông Diêu qua nhà ông Sang chơi ở phố Hàng Dừa, đường Arras gần chợ Thái Bình, Sài Gòn. Lúc ấy, con ông Diêu là Cao Quỳnh Đức thấy mới hỏi cho biết mấy ổng đi đâu thì ông Sang trả lời là:
“Đi sai bàn.”
Cao Quỳnh Đức mới hỏi: “Sai bàn là chi?”
Ông Sang trả lời: “Là cầu các linh hồn về nói chuyện chơi.”
Nghe vậy, Cao Quỳnh Đức cũng lấy làm lạ mà đi theo coi làm thế nào cho biết. Đoạn mấy ông đều kêu xe kéo vô nhà ông Sang rồi vầy nhau xung quanh một cái bàn tròn 3 chưn để nơi trước hàng ba, lại có chưng bình bông tươi tốt và đốt nhang, sắp đặt trên một cái bàn nhỏ để vựa vách kế đó. Chừng mấy ông kêu:
“Lẳng lặng định thần.”
Thì mỗi người đều để 2 tay úp lên mặt bàn, ngồi im.
Giây lâu, cái bàn nghiêng qua bên ông Cư, ông Cư cứ tưởng là do ông Tắc phá nên rầy và biểu đừng xô, cứ ngồi cho tịnh. Bàn lại ngã qua phía ông Diêu, ông Diêu cũng cho là nội bọn phá nên lại rầy nữa. Cách một chập coi bộ mấy ông mỏi tay nên thảy đều tan ra nghỉ hết, coi trông mấy ông chưa ai thạo việc ấy cả, cứ cãi nhau hoài. Kẻ nói vầy người luận khác, phân phân bất nhứt. Khi ấy ông Sang mới nói với mấy ông rằng:
“Mình cứ tịnh tâm, ngồi im lìm, chừng nào có vong nhập thì chắc là họ gõ chơn bàn nghe cắc cắc chớ gì.”
Nghe đến đó ai nấy cũng làm dùn mình.
Đến khi vầy nhau lại nữa, ông Cư ngồi xếp bằng trên ghế tỏ ý rằng sợ hồn ma vào gõ bàn mà đụng cẳng, nên cả thảy đều rút chơn lên. Người thì chồm hổm, người xếp bằng.
Lúc ấy đã khuya, coi ông nào cũng mệt. Phần thì muỗi chít chơn, hễ thò tay xuống gảy thì lại động làm cho cái bàn không yên tịnh, lớp lại buồn ngủ. Ông Cư lại suy nghĩ rồi luận rằng:
“Thế khi chúng ta để trong nhà nên các hồn ma không dám vào.
Vậy khiêng bàn ra ngoài trời trống trải họa may họ mới nhập đặng.”
Đoạn mấy ông hè hụi áp nhau khiêng bàn ra sân.
Ngồi một hồi lâu, bàn cũng cứ dở lên để xuống làm cho mấy ông rầy nhau rồi cười hoài. Gặp lúc khuya trời tối, muỗi lại cắn hơn nữa. Mấy ông chịu đà hết nỗi mới đành dẹp nghỉ, nhưng hẹn tối mai sẽ hiệp nhau làm cho hết ý.
Ai nấy đều vui chịu rồi từ giã nhau ra về.
Qua đến đêm mai gặp nhằm thứ bảy, lối 9 giờ, thảy đều tựu đến đủ mặt, cũng sửa soạn như bữa trước rồi vầy nhau lại ngồi chung quanh để tay úp trên mặt bàn.
Nhưng nay ông Cư có dặn mọi người là phải xè bàn tay ra, 2 ngón tay cái của mỗi người đều đâu đầu lại rồi ngón tay út của người khác làm cho có thế các bàn tay liền nhau trọn cái vòng bàn. Mấy ông đều nghe theo.
Tịnh một chập, bàn dở lên cao ngã vào góc tường, rủi cho ông Tắc ngồi phía trong kẹt, làm cho ông Tắc tưởng rằng ông Sang đang ngồi đối diện cố ý muốn cợt chơi, nên ông Tắc la um sùm là:
“Sang! Sang!
Đừng phá mầy, chơi giống gì kỳ quá, mắc kẹt tao sao mậy!
Ráng ngồi tử tế coi mà!”
Ai nấy thấy vậy đều cười rộ lên. Mặt bàn nghiêng lại như cũ. Ông Cư thấy vậy liền năn nỉ mấy ông xin đừng giỡn, để ý ráng làm cho tận tâm coi thế nào cho biết. Khi nghe ông Cư nói vậy, cả thảy đều ngồi lẳng lặng. Ông Cư thường hay có tánh giả ngộ, hễ nghe bàn cục kịch lại trợn mắt ngó mấy ông kia, làm ai nấy cũng có vẻ sờ sợ xong rồi ráp nhau cười rộ lên nữa. Làm như vậy đã trót vài giờ mà bàn cũng cứ dở lên để xuống mãi. Mà hễ thấy vậy thì mấy ổng lại rầy nhau, tưởng rằng tại người xô mà thôi. Chừng tịnh lần nầy cả thảy ngồi im lìm, thoạt nhiên bàn dở lên gõ lia gõ lịa. Mấy ông cũng cho là nội bọn phá, bèn hỏi thăm nhau. Ai nấy đều tỏ rằng cả thảy đều để thật lòng mà thử cho hết sức nên không xô đẩy chi, ấy là bàn diêu động tự nhiên. Khi đó, người thì nói tê tay, kẻ lại nghe rần rần trong người. Trong cơn mấy ông hỏi nhau thì bàn dứt gõ, nhưng cũng còn linh chinh dường như có sự sống vậy.
Chừng nghi rằng có vong nhập, thảy đều kinh tâm. Mấy ông lụi đụi không biết phương chi mà thông đồng với vong đặng. Lúc ấy ông Cư mới liền dặn mọi người để như cũ, đừng ai lấy tay ra khỏi bàn mà làm xao động, e vì vong xuất ngoại. Dứt lời, ông Cư mới nói với vong rằng:
“Xin khoan đi, để cho hỏi ít lời. Bây giờ chưa kiếm đặng thế nào cho hiểu nhau thì duy cứ gõ 2, nghĩa là ‘Ừ, chịu, có’ hoặc ‘phải’, còn gõ 1 là ‘Không’ hay là ‘chẳng phải’.”
Vong tiếp gõ 2, tỏ rằng chịu theo lời dặn.
Đoạn ông Cư liền ngụ ý rồi nói với vong như vầy:
“Ta hiểu theo đây thì có thể nói chuyện với nhau tiện hơn. Nếu tôi hỏi chi muốn trả lời lại, cứ tùy theo vần Alphabet quốc ngữ mà gõ, mỗi chữ mỗi gõ, đến chữ nào dùng thì ngưng lại, nghĩa là lấy chữ chót rồi bắt đầu trở lại mà nối chữ khác. Xong rồi sẽ ráp lại mà đọc, giống như điệu dây thép vậy.”
Vong liền gõ 2, nghĩa là “đồng ý”.
Hiểu nhau rồi, bàn gõ, ông Cư khởi đọc. Nhưng sự chi cũng vậy, lúc đầu sao cũng lộn xộn năm bảy phen, đọc cho đến hết 20 mấy chữ cái mà bàn cũng còn gõ mãi. Tức mình ông Cư mới cắt nghĩa lại một lần nữa. Thật lấy làm tội nghiệp cho vong quá, mà lại cũng thương mấy ông vì muốn thấu đáo nên ráng chịu khó đến cùng. May sao lối mỏn hơi rồi, ông Cư đọc từ A, Ă, Â, B, C, D, Đ,… tới chữ L thì dứt gõ.
Ông Cư dặn ông Sang nhớ chữ ấy, đủ rồi sẽ ghép lại. Đoạn bạn gõ tiếp quận thứ nhì. Ông Cư cũng đọc từ A, Ă, Â, B, C, D, Đ,… cho đến chữ Ư bàn ngừng lại rồi cũng cứ nối điệu theo như trước, cho đến khi ráp lại đặng mấy chữ nầy:
“L Ư Ơ N G C A O Q U Y N H”
Đó là Cao Quỳnh Lượng, tên người con của ông Diêu đã qua đời cách đây vài năm. Khi tiếp đặng mấy chữ ấy rồi thì mấy ông hớn hở vui cười. Dứt tiếng, ông Cư suy nghĩ rồi nói rằng:
“Như phải là Cao Quỳnh Lượng thì chắc biết mấy người ngồi đây, vậy cứ nói tên mỗi người coi có trúng chăng?”
Ông Cư vừa dứt lời thì bàn gõ, chừng ráp nguyên chữ thì thành ra mấy chữ thế nầy:
“D I Ê U”
“C Ư”
“T Ă C”
“S A N G”
“Đ Ư C”
“T H Â N”
“N G U Y Ê N”
Thảy đều rộ cười lên, còn cái bàn thì hỏng lên một chưng lắc qua lắc lại dường như cũng cười theo vậy. Khi ấy, ông Diêu mới tiếp hỏi Lượng rằng:
“Con có ở hầu ông nội chăng?”
Bàn gõ trả lời: “Có.”
Ông Diêu tiếp: “Mời ông nội đến đây, tiện không?”
Bàn gõ trả lời: “Đặng.”
Dứt lời thì bàn dở lên rồi để xuống, không còn diêu động như khi nẩy nữa. Lúc ấy ông Tắc mới nói là:
“Bộ khi nó đi rồi.”
Nghe vậy mấy ông đều dang ra nghỉ hết. Chừng ấy, trông coi mấy ông, ông nào cũng lấy làm lạ, mà nhứt là ông Diêu và ông Cư. Cũng bởi từ ấu chí trưởng 2 người không tin chi hết, cho kiếp chết là mất rồi nên chẳng tin là có hồn. Nay lại thấy điều lạ kỳ như vậy thì 2 người ngồi nhìn nhau, tình hình như cánh cửa của sự bí mật đã dần hé mở cho mấy ông thấy đặng. Cách nữa giờ cả thảy vầy nhau ngồi để tay lên cũng tịnh như trước, kỳ nầy trông mấy ông có màu kiêng dè không dám cười giỡn nữa.
Đoạn bàn gõ, ông Cư cũng đọc chữ rồi ráp lại được như vầy:
“C A O Q U Y N H T U Â N”
Cao Quỳnh Tuân là tên thân sinh của ông Diêu và ông Cư. Sau đó cả thảy đều đứng dậy xá rồi ngồi xuống. Ông Diêu hỏi sơ ít điều đã qua rồi, kế ông Cư mới tiếp nói rằng:
“Vì buổi thầy quá vãng anh em con vẫn còn nhỏ dại, cho đến đỗi anh của con đã trông còn không nhớ đặng hình ảnh của thầy, huống chi là con còn nhỏ quá. Duy buổi lớn khôn nghe người truyền ngôn lại cái hạnh đức của thầy mà thôi.
Nếu có thể tiện, xin thầy dùng dịp nầy cho anh em con một bài thi tự thuật, hầu để rọi truyền ngày sau cho con cháu làm kỷ niệm.”
Bàn gõ tỏ ý khứng chịu rồi liền tiếp đánh nhịp ráp lại được bài thơ như vầy:
“Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương câu dặn gắng tâm đời.
Bên màng đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.”
Khi làm đến câu chuyển thì cả thảy đều nao lòng rưng rưng nước mắt, chừng qua câu kế thì ông Diêu, ông Cư, và ông Tắc đều vùng khóc lớn lên một lượt làm mấy ông kia với ông Sang cũng mủi lòng khóc theo. Lúc đó đâu cũng gần 2 giờ sáng, lối xóm nghe khóc rùm lên vài nhà lân cận đến dòm, thấy việc kỳ quái thì họ đứng coi một hồi nhưng không hiểu chi rồi cũng đều lui về nhà ngủ hết.
Dứt bài rồi thì ông Cao Quỳnh Tuân tiếp thêm mấy chữ: “Thầy xin kiếu.”
Ông Cư vội nói:
“Thưa thầy, ngày mai con nấu mâm cơm cúng thầy, kính thỉnh thầy về chứng lòng thảo của chúng con.”
Ông Tuân gõ bàn tỏ ý chấp thuận. Đoạn bàn dở lên cao rồi để xuống nhẹ hều không còn hơi động địa như trước nữa. Mấy ông mới nói: “Đi rồi, đi rồi.”
Khi ấy mấy ông mới xúm nhau đem vô đèn chép mỗi người một bản coi đi coi lại rồi trầm trồ khen mãi.
Ông Cao Quỳnh Tuân qui vị lúc 53 tuổi.
Theo lời dạy của Đức Thượng Đế thì Ông Cao Quỳnh Tuân là Chơn linh Xuất Bộ Tinh Quân giáng trần.
Đạo sử tổng hợp biên khảo từ các bản khác nhau:
- Tiểu sử Đức Cao Thượng Phẩm
- Đạo Sử – Đức Nữ Đầu Sư Hương Hiếu
- Chuyện kể về Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
- Đạo Sử xây bàn Đạo Cao Đài
Ảnh tư liệu minh họa 3 ông Cư Tắc Sang ngồi xây bàn trích từ Đạo Sử của Đức Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.
Tam Giới Toàn Thư – 1807888362737058
Xem thêm về Chuyện cầu cơ tiếp theo của 3 vị trên
Vĩnh Khánh Nguyễn Phước
Từng nghe, mà chưa tin được vì chưa được chứng tận mục sở thị.
TGTT Thưa bác, chuyện xưa đã cũ, được ghi lại thế nào thì trên này viết lại như thế ạ.