Kinh Tận độ Vong linh – Kinh Cầu Siêu
* Kinh văn:
Kinh Cầu Siêu
Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ
A Di Đà Phật độ chúng dân
Quan Thế Âm lân mẫn ân cần
Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát
Bố Từ Bi tế bạt vong hồn
Cứu khổ nạn Thái Ất Thiên Tôn
Miền Âm cảnh ngục môn khai giải
Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại
Độ kẻ lành chế cải tai ương
Chốn Dạ đài Thập Điện Từ Vương
Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết
Giảm hình phạt bớt đường luy tiết
Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên
Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên
Nơi Phước địa ở yên tu luyện
Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện
Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
Đọc dứt thì niệm:
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát (Mật niệm 12 lần)
Hoặc niệm câu:
Nam mô Hồng Quân Lão Tổ Cửu Thiên Cảm Ứng Từ Tôn (Mật niệm 12 lần).
Có thể niệm bất kỳ câu tôn danh Phật Hiệu nào đối với chư vị Thần Thánh Tiên Phật mà người trì tụng tin tưởng, hoặc biết người mất có đức tin sâu dày với vị nào thì niệm tôn danh vị ấy.
Nguồn gốc và Ý nghĩa:
Nguồn gốc bài Kinh Cầu Siêu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là bài “Sám Cầu Siêu” được thỉnh từ Chi Minh Lý, tức Tam Tông Miếu bây giờ.
Bài Kinh này, Chi Minh Lý cầu Đức Chuẩn Đề Bồ Tát giáng cơ ban cho và dạy phải truyền kinh để phổ độ.
Khi Đạo Cao Đài được khai sáng, Hội Thánh cử một phái đoàn gồm bốn Ngài: Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư, Giáo Sư Vương Quang Kỳ và Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đến Minh Lý Đạo thỉnh sáu bài Kinh, trong đó có bài Kinh Cầu Siêu.
Kinh Cầu Siêu là bài Kinh tụng đọc cho các Chơn linh mới chết hay các tuần Cầu Siêu bạt tiến trong đạo Cao Đài để cầu xin Đấng Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng liêng Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thất Nương Diêu Trì Cung ân xá cho vong hồn người chết được siêu thăng thoát hóa.
Khi Cầu siêu, những người thân trong tang quyến (con cháu) và thân bằng quyến thuộc phải tập trung để thành tâm cầu nguyện cho linh hồn người chết được nhẹ nhàng.
Tác dụng của Kinh Cầu siêu
Trong quyển “Thiên Đạo”, Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có nói đến sự tác dụng của Kinh Cầu siêu như sau:
“Kinh Cầu Siêu rất linh nghiệm vì mỗi tiếng tụng lên vốn có sức rung động huyền diệu vô cùng. Sức rung động ấy, hiệp với sức tư tưởng mạnh mẽ và thành kỉnh của người tụng kinh gây thành một mảnh lực phi thường đánh tan Chơn thần của âm nhơn, giúp cho họ mau giải thoát đau khổ và hình phạt Thiêng Liêng đặng đi đầu thai sớm được”.
Thực hiện lễ Cầu siêu là nhằm cầu xin Ơn Trên cứu giúp phần nào cho vong linh người chết được nhẹ nhàng, chứ không hẳn nhiên cầu là được siêu thoát, vì nó còn tùy thuộc vào nghiệp quả nặng nhẹ mà kiếp sanh người chết đã gây ra.
Nhưng sự siêu thoát của cha mẹ ông bà có thể trợ giúp được phần nào bằng việc làm của con cháu. Nếu con cháu biết lo tu hành, lập công bồi đức để có thừa âm chất mà đem hiến dâng cho cha mẹ ông bà thì những Chơn linh này có thể được nhẹ nhàng trở về ngôi xưa vị cũ.
Trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu có câu:
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
* Diễn nghĩa Kinh
Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
A Di Đà Phật độ chúng dân,
Vọng bái 望 拜: Ngưỡng vọng mà cúi lạy.
Tây Phương Phật Tổ 西 方 佛 祖: Đức Thích Ca Mâu Ni được gọi là Phật Tổ ở cõi Tây Phương là vì Ngài là một vị Tổ Sư và lại là người sáng lập ra Phật giáo ở phương tây nước Ấn Độ.
A Di Đà 阿 彌 陀: Một trong những vị Phật quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Ngài được thờ trong các ngôi chùa của phái Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
A Di Đà là một vị Phật làm Giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc. Ngài biểu hiện cho từ bi và trí tuệ. Ngài có phát 48 lời nguyện rộng lớn là cứu độ tất cả chúng sanh, trong đó có lời nguyện sẽ tiếp dẫn vãng sanh về cõi Tịnh độ chúng sanh nào hướng niệm đến Ngài.
Phật A Di Đà tức tự tánh Di Đà, tự tâm thanh tịnh sẵn có, bất sanh bất diệt, nên còn gọi là Vô Lượng Thọ Phật 無 量 壽 佛, và tánh giác hằng sáng suốt, nên cũng còn gọi là Vô Lượng Quang Phật 無 量 光 佛.
Trong các ngôi chùa thường thờ Ngài ngồi chính giữa, Bồ Tát Thế Chí đứng bên phải, và Bồ Tát Quan Âm đứng bên trái.
Độ chúng dân 度 眾 民: Tức là cứu giúp chúng sanh, cứu giúp nhơn sanh.
Câu 1: Đầu ngưỡng vọng cúi lạy Đức Phật Tổ ở cõi Tây Phương.
Câu 2: Cùng Phật A Di Đà nơi Cực Lạc xin cứu giúp cho chúng sanh.
Lúc sanh tiền, Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Văn Phật đã có lòng từ bi, thương xót chúng sanh mãi chìm sâu trong biển khổ, nên dù Ngài đang là một vị Thái Tử, quyền uy khắp nước, thế mà Ngài vẫn lìa bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh để chịu khổ hạnh tìm phương cứu khổ chúng sanh. Nên khi Ngài thành Đạo dưới cội cây Bồ đề, Ngài bèn truyền pháp độ sanh hơn 45 năm truờng đến lúc nhập Niết bàn mới thôi.
Còn Đức A Di Đà Phật lập ra cõi Cực Lạc Thế Giới là có ý mong muốn độ hết chúng sanh về cõi ấy, nên trong 48 lời nguyện rộng lớn của Ngài, có một câu đại nguyện là tiếp dẫn chúng sanh nào hướng niệm đến Ngài đều được vãng sanh về cõi Tịnh độ.
Do lòng Đại từ bi và Đại nguyện của hai Đấng Phật , nên khi chúng sanh cần cầu cho các vong linh được về cõi Phật quốc, thì thường nguyện vái Đấng Tây Phương Phật Tổ và A Di Đà Phật.
Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,
Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc,
Quan Thế Âm 觀 世 音: Hay Quán Thế Âm là một vị Bồ Tát lắng nghe âm thanh của thế gian, có nghĩa là Ngài quán xét tiếng kêu đau khổ của chúng sanh thì Ngài đều đến cứu giúp hóa độ.
Trong Kinh Pháp Hoa có câu: Khổ não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thì quan kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát. Dĩ thị danh Quan Thế Âm 苦 惱 眾 生, 一 心 稱 名, 菩 薩 即 時 觀 其 音 聲, 皆 得 解 脫, 以 是 名 觀 世 音.
Nghĩa là chúng sanh bị khổ não mà nhất tâm niệm đến tên Bồ Tát, tức thì Ngài xem âm thanh của chúng sanh mà độ cho được giải thoát. Vì thế nên gọi Ngài là Quán Thế Âm. Người đời thường gọi tắt Ngài là Quan Âm.
Ngài còn có hiệu là Quán Tự Tại Bồ Tát, có nghĩa là quán chiếu thâm sâu, giác ngộ tự tại mà cứu độ chúng sinh.
Đức Quán thế Âm có phép thần thông quảng đại, thường hay biến hiện nhiều sắc tướng để cứu giúp chúng sanh, nên người đời thường thờ Ngài bằng nhiều tượng khác nhau.
-Thiên thủ thiên nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát 千 手 千 眼 觀 世 音 菩 薩 tượng có nghìn tay nghìn mắt.
-Chuẩn Đề Quan Âm 準 提 觀 音 : Tượng có ba mắt và mười tám tay.
-Nam Hải Viên Thông Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi, Tầm Thanh Cứu Khổ, Linh Cảm Quan Âm Bồ Tát 南 海 圓 通 教 主 大 慈大 悲 尋 聲 救 苦 靈 感 觀 世 音 菩 薩: Danh hiệu nầy có nghĩa là Đức Quan Thế Âm làm Giáo Chủ Đạo Viên Thông ở miền Nam Hải, thường tìm tiếng kêu mà cứu khổ, rất cảm ứng và rất Thiêng liêng.
-Quan Âm Nữ Phật 觀 音 女 佛 : Tượng là một người phụ nữ, cho nên còn gọi là Phật Bà Quan Âm, do hai sự tích : Quan Âm Diệu Thiện và Quan Âm Thị Kính.
Trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Quan Thế Âm là một tướng nữ, tượng trưng cho tình thương của một bà mẹ hiền, đứng trên hoa sen, tay cầm cành dương liễu để tiếp dẫn chúng sanh và bình nước cam lồ để rưới tắt các phiền não. Trụ Xứ của Ngài là Nam Hải, nên còn được gọi Nam Hải Quan Âm hay Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai. Ngài được Đức Chí Tôn phong làm Nhị Trấn Oai Nghiêm Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai để đại diện cho Phật trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Bát Nương có giáng cơ cho biết về Đức Quan Âm như sau: “Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về cơ Phổ Độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên”.
Sau đây là bài Thánh thi của Đức Quan Âm Như Lai:
Khán đắc phù sinh nhứt thế không,
看 得 浮 生 一 世 空
Điền viên sản nghiệp diệc giai không.
田 園 產 業 亦 皆 空
Thê nhi phụ tử chung ly biệt,
妻 兒 父 子 終 離 別
Phú quý công danh tổng thị không.
富 貴 功 名 總 是 空
Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,
古 語 萬 般 都 是 假
Kim ngôn bá kế nhứt trường không.
今 言 百 計 一 場 空
Tiền tài thâu thập đa tân khổ,
錢 財 收 拾 多 辛 苦
Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không.
路 上 黃 泉 兩 手 空
(Quan Âm Như Lai)
DỊCH NGHĨA
Được thấy phù sinh vốn cõi không,
Ruộng vườn sự nghiệp cũng đều không.
Vợ con cha mẹ rồi ly biệt,
Danh lợi sang giàu rốt cũng không.
Lời cổ: Muôn điều toàn giả tạm,
Câu nay: Trăm kế một trường không.
Tiền tài gom góp nhiều lao khổ,
Nẽo đến Suối Vàng, tay sạch không.
(Thiên Vân dịch)
Lân mẫn 憐 愍: Thương xót và lo lắng giúp đỡ.
Ân cần 慇 勤: Lo lắng săn sóc một cách chu đáo.
Vớt: Cứu vớt.
Lê thứ 黎 庶: Dân đen, chỉ dân chúng nghèo khổ.
Khổ trần: Hay trần khổ 塵 苦: Những nỗi khổ nơi cõi trần.
Đọa lạc 墮 落: Hay trụy lạc, sa vào một cảnh đê hèn khổ sở. Theo nghĩa Kinh là bị đày xuống cõi thấp kém, tối tăm khổ sở.
Câu 3: Cầu xin Đức Quan Thế Âm thương xót ân cần lo lắng.
Câu 4:Cứu vớt cho dân chúng đang bị đày đọa khổ sở nơi cõi trần này.
Chúng sanh bị khổ nghiệp vây khốn nơi cõi thế gian giả tạm, nên Chư Phật Tiên và Bồ Tát xuất hiện trên cõi đời này với hạnh nguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi loài. Trong đó, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát được các Kinh ca tụng có hạnh nguyện độc đáo nhứt. Ngài đã chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩ căn viên thông, và lấy âm thanh làm tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ, cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, đã nói lên được đầy đủ ý nghĩa hạnh nguyện đó. Vì thế, những nỗi khổ đau, tai nạn của kiếp người, cùng tiếng kêu gào van xin, cầu cứu của chúng sanh trong bể khổ đã làm cho nguyện lực độ sanh của Quán Thế Âm Bồ Tát phát sinh. Nên Ngài đã dùng nhĩ căn viên thông, thường xuyên quan sát và nghe tiếng cầu cứu của chúng sanh, tùy theo căn cơ mà Ngài hóa độ và cứu vớt.
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Bố từ bi tế bạt vong hồn,
Đại thánh 大 聖: Vị Thánh lớn.
Địa Tạng Vương Bồ Tát 地 藏 王 菩 薩: Tên một vị Bồ Tát có lời đại nguyện cứu thoát chúng sanh ra khỏi cảnh giới Địa ngục khổ sở.
Phật hiệu này mang ý nghĩa như sau: Địa 地 là đất, là nơi nương tựa của muôn loài, nhờ đất mà vạn vật nẩy nở, do đất mà phát sinh muôn loài. Tạng 藏 là kho báu chất chứa trong lòng đất. Tâm được ví như đất, nên Bồ Tát Địa Tạng tượng trưng cho chân tâm. Chúng sanh phải nương vào chân tâm mới an vui giải thoát.
Ngài có lập thệ: Nếu địa ngục chưa hết, thề không thành Phật, chúng sanh độ hết, mới chứng bồ đề. Cho nên gọi Ngài là U Minh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, chúng sanh tận độ, phương chứng bồ đề 地 獄 未空, 誓 不 成 佛, 眾 生 盡 度, 方 證 菩 提.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn ân xá cho chúng sanh, đóng cửa Địa ngục, Phong đô mà mở ra một quan ải cho các Chơn hồn giải thân định trí, nói rõ hơn, đó là nơi của các hồn đến đó đặng định tâm xét mình, coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội, nơi đó được gọi là Âm Quang, do Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các nam tội hồn, còn Thất Nương Diêu Trì Cung thì lãnh phần giáo hóa các nữ tội hồn.
Bố từ bi 布 慈 悲: Ban rải lòng thương yêu chúng sanh.
Tế bạt 濟 拔: Cứu giúp để cất nhắc lên.
Chú thích: Từ bạt có nhiều chữ đồng âm, nhưng phù hợp với ý câu kinh chỉ là chữ 拔 (bạt): Chọn để cất nhắc lên. Như đề bạt 提拔. Chữ bạt tiến hoặc tiến bạt 薦拔,chính là từ bạt này.
Vong hồn 亡魂: Hồn người chết.
Câu 5: Cầu xin Đấng Đại Thánh là Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Câu 6: Ban rải lòng từ bi mà cứu giúp để cất nhắc các vong hồn cho được siêu thoát.
Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn.
Miền Âm cảnh ngục môn khai giải,
Cứu khổ nàn: Tức là cứu khổ nạn 救 苦 難: Cứu giúp thoát khỏi những tai nạn và khổ sở.
Thái Ất Thiên Tôn 太 乙 天 尊: Một vị đại Tiên, thầy của Tam Thái Bảo Na Tra, có nhiệm vụ chưởng quản bộ sổ ở cõi Phong Đô.
Miền Âm cảnh: Cõi Âm phủ, cõi A tỳ, cõi Địa ngục…
Ngục môn khai giải 獄 門 開 解: Mở bỏ cửa Địa ngục.
Câu 7: Cầu xin Thái Ất Thiên Tôn cứu giúp thoát khỏi cảnh khổ sở.
Câu 8: Xin mở bỏ những cửa ngục nơi miền Âm phủ.
Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại.
Độ kẻ lành chế cải tai ương.
Đông Nhạc Đế Quân 東 嶽 帝 君: Là một vị Thiên Thần, trấn ở Đông Nhạc thuộc núi Thái Sơn, có nhiệm vụ cai quản, sửa trị tất cả các hồn u uất tán loạn, cùng việc thăng giáng của quỉ thần bất kỳ ở Dương gian hay Âm phủ.
Ngũ nhạc 五 嶽 là năm ngọn núi cao làm tiêu biểu cho 5 hướng bên nước Trung Hoa. Đó là:
-Đông nhạc Thái sơn 東 嶽 泰 山.
-Tây nhạc Hoa sơn 西 嶽 華 山.
-Nam nhạc Hành sơn 南 嶽 衡 山.
-Bắc nhạc Hằng sơn 北 嶽 恆 山.
-Trung nhạc Tung sơn 中 嶽 嵩 山.
Trên năn ngọn núi này, tương truyền có năm vị Đế Quân trấn giữ, trong đó Đông Nhạc Đế Quân làm đầu thần Ngũ nhạc.
Quảng đại 廣 大: Rộng lớn, chỉ lòng dạ rộng rãi bao la.
Chế cải 制 改: Sửa đổi lại.
Tai ương 災 殃: Cái tai họa có hại lớn.
Câu 9: Mong nhờ ơn rộng rãi bao la của Đức Đông Nhạc Đế Quân.
Câu 10: Cứu giúp cho kẻ làm lành và sửa đổi bớt những tai ương hoạn nạn.
Chốn Dạ đài Thập Điện Từ Vương,
Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.
Dạ đài 夜 臺: Chỉ lâu đài, cung điện ở Âm phủ, đồng nghĩa với Diêm đài, hay Diêm cung, Âm cung.
Thập Điện Từ Vương 十 殿 慈 王: Mười vị vua có lòng nhơn từ, đang cai quản mười điện ở cõi Âm phủ. Mười vị vua đó thường được gọi là Thập Điện Diêm Vương 十 殿 閻 王 hay Thập Điện Minh Vương
Theo kinh sách, mười vị Diêm Vương cai quản mười điện ở Âm phủ được kể như sau:
Nhứt Điện 一 殿: Tần Quảng Vương 秦 廣 王.
Nhị Điện 二殿: Sở Giang Vương 楚 江 王.
Tam Điện 三 殿: Tống Đế Vương 宋 帝 王.
Tứ Điện 四 殿: Ngũ Quan Vương 五 關 王.
Ngũ Điện 五 殿: Diêm La Vương 閻 羅 王.
Lục Điện 六 殿: Biện Thành Vương 卞 城 王.
Thất Điện 七 殿: Thái Sơn Vương 泰 山 王.
Bát Điện 八 殿: Bình Đẳng Vương 平 等 王.
Cửu Điện 九 殿: Đô Thị Vương 都 示 王.
Thập Điện 十殿: Chuyển Luân Vương 轉 輪 王.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn Đại Ân Xá, đóng Địa ngục, mở Từng Thiên, nên Thập Điện Diêm Vương hay Thập Điện Minh Vương được chúng sanh gọi là Thập Điện Từ Vương Chưởng quản cõi Âm Quang.
Hình khổ: Hay Khổ hình 苦 刑: Hình phạt chịu nhiều khổ sở.
Thảm thiết 慘 切: Đau đớn như cắt.
Câu 11: Cầu xin Thập Điện Diêm Vương nhơn từ ở cõi Âm phủ.
Câu 12: Thấy các tội hồn thọ khổ hình mà đem lòng thương thảm thiết.
Giảm hình phạt bớt đường ly tiết. (1)
Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên,
Giảm 減: Bớt, trừ bớt.
Hình phạt: Hay phạt hình 罰 刑: Hình phạt để trừng trị kẻ có tội.
Bớt đường: Giảm bớt việc.
Luy tiết 縲 絏: Dây trói buộc tù phạm, trăn trói, giam cầm.
Ông Hoàn Phạm範 桓có nói: Xe hiên, mão miện thì để kính trọng người quân tử, còn như trăng trói thì để hành phạt kẻ tiểu nhân (Hiên miện dĩ trọng quân tử, luy tiết dĩ phạt tiểu nhân 軒 冕 以 重 君 子, 縲 洩 以 罰 小 人).
Xá 赦: Tha cho.
Linh quang 靈 光: Điểm Linh quang, tức là linh hồn.
Thượng Đế là một khối Đại Linh quang trong Càn khôn Vũ trụ. Ngài mới chiết từng Tiểu Linh quang ban cho mỗi con người làm linh hồn.
Tiêu diệt 消 滅: Trừ mất hẳn đi.
Tiền khiên 前 愆: Những tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước.
Câu 13: Xin giảm những hình phạt và bớt cho việc giam cầm, trăn trói.
Câu 14: Cầu xin tha thứ cho các linh hồn và trừ dứt hết các tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước.
Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên.
Nơi phước địa ở yên tu luyện,
Đặng nhẹ nhàng: Tức là Chơn linh không còn trọng trược nữa.
Cung Tiên: Hay Tiên cung 仙 宮: Cung Trời, chỉ cõi Tiên hay cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Phước địa 福 地: Đất phước, nơi nhiều phước lành.
Tu luyện 修 鍊: Tu sửa và rèn luyện.
Thường tu thì phải hành, ở đây tu cũng phải luyện, tức là sửa đổi những tính xấu xa, hung dữ rồi phải trau giồi rèn luyện để trở nên người hiền lương đạo đức.
Tu luyện còn là một phép của phái Đạo gia, đó là tu tâm dưỡng tánh và còn luyện thần khí nữa.
Câu 15: Linh hồn đặng nhẹ nhàng mà lên thẳng đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 16: Còn nếu ở lại thì hãy yên nơi cõi phước mà lo bề tu luyện.
Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
Chứng lòng: Chứng chiếu cho tấm lòng.
Sở nguyện 所 願: Điều mà mình cầu nguyện, điều mà mình mong mỏi trong lòng.
Hộ 護: Gìn giữ, che chở.
Thương sanh 蒼 生: Dân đen, chỉ chung nhơn dân hay nhơn sanh.
Có nhiều người hiểu chữ “thương sanh” theo nghĩa từ Nôm là thương yêu sanh chúng.
U hiển 幽 顯: Tối và rõ, Âm phủ và Dương gian.
Khương ninh 康 寧: An ổn mạnh khoẻ.
Câu 17: Cầu xin các Đấng Trời Phật chứng cho điều cầu nguyện.
Câu 18: Xin gìn giữ che chở cho con người ở cõi Âm phủ và Dương gian được an ổn mạnh khoẻ.
Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ
A Di Đà Phật độ chúng dân
Quan Thế Âm lân mẫn ân cần
Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc
Tây Phương Phật Tổ:
Đức Phật Thích Ca. Đây là vị Giáo Chủ Phật Giáo hay Phật Tổ của dòng Thích Ca, cho nên những người hành giả tu tập theo Ngài hiện nay đều lấy Thích làm tên họ cho pháp danh của mình. Ngài ngự nơi hướng Tây của Cực Lạc Thế Giới.
A Di Đà Phật:
Đức Phật cai quản cõi Tịnh Độ, nơi an nhàn thanh tịnh. Ngài là vị Giáo Chủ Long Hoa Nhị Hội Hồng Dương Kỳ.
Người hiện an ngự tại Lôi Âm Tự nơi Cực Lạc Thế Giới, cõi giới riêng của Người là Di Đà Tịnh Thổ
Quan Thế Âm:
Vị Đại Bồ Tát chèo thuyền Bát Nhã cứu độ chúng sinh muôn phương.
Xin cúi đầu lễ bái Đức Phật Tổ, Đức A Di Đà Phật và Đức Quan Thế Âm đầy lòng từ bi thương xót chúng sinh, thường hành cứu độ chúng sinh thoát vòng khổ hải.
…
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát
Bố Từ Bi tế bạt vong hồn
Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn
Miền âm cảnh ngục môn khai giải
Địa Tạng Vương Bồ Tát:
Vị Đại Bồ Tát chuyên cứu độ, giáo hóa các vong hồn tội lỗi nơi Âm Cảnh.
Thái Ất Thiên Tôn:
Vị Đại Tiên trong Thập Nhị Đại Tiên môn đệ của Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn. Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn một trong ba vị Tam Thanh, những hóa thân đầu tiên của Đức Hồng Quân Lão Tổ.
Nhờ ơn của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng Đức Thái Ất Thiên Tôn hiển linh cứu khổ cho các vong hồn đang bị giam hãm trong sự mê muội, tội lỗi của mình được mau chóng giác ngộ, khai mở tâm thức hồi đầu hướng thiện để có thể cao thăng, nhẹ nhàng siêu thoát.
…
Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại
Độ kẻ lành chế cải tai ương
Chốn Dạ đài Thập Điện Từ Vương
Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết
Đông Nhạc Đế Quân:
Thời Thương Châu, Ngài là võ tướng Hoàng Phi Hổ, sau khi đăng tiên thì đứng đầu Ngũ Nhạc. Ngũ Nhạc là năm ngọn núi ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung Ương.
Thập Điện Từ Vương:
Đây là mười vị cao trọng cai quản Thập Điện Diêm Cung nơi cõi Âm Quang. Họ cai quản, thuyết giảng cho các vong linh tội lỗi nơi cõi Âm Quang được hiểu và sám hối tội căn của mình.
Nhờ ơn đức của Đức Đông Nhạc Đế Quân độ dẫn các vong linh thiện lành được giải trừ mê chấp tà kiến tư niệm bất thiện, sửa đổi các tai họa nghiệp chướng nhờ vào việc lập thiện nghiệp khi còn sống.
Nơi các cung điện cõi Âm Quang, chư vị cai quản nhìn thấy sự khổ não, dày vò đau đớn tâm thức chư vong linh mà lòng xót thương thảm thiết vô cùng.
…
Giảm hình phạt bớt đường luy tiết
Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên
Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên
Nơi Phước địa ở yên tu luyện
Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện
Hộ thương sanh u hiển khương ninh
Nhờ vào tình yêu thương, giáo hóa của chư vị với chúng sinh, nhờ vào uy lực của những hành giả còn sống cùng nhau hộ niệm, cầu nguyện cho những đau khổ do sự hành phạt bởi các ác nghiệp lúc còn sống gây nên, lẫn các ác nghiệp đời trước chưa trả dứt. Nhờ vậy, các vong hồn tội lỗi được nghe lời Kinh Chân Thật mà định Thần, định Trí, không còn dày vò đau khổ, nhẹ nhàng hướng đến các cõi giới cao trọng, an nhàn. Khi ấy, các vong hồn này sẽ nương theo sự dẫn dắt, giáo hóa của chư vị mà tu hành tinh tấn để giải khổ, trả nghiệp cho dứt mới được an lạc, thong dong tự tại nơi cõi vô hình, là “Hạnh phúc chân thật đó vậy.”
* Ý nghĩa của việc trì tụng kinh này
Kinh Cầu Siêu được tụng cho người vừa chết, khi làm lễ tẫn liệm, đăng điện, chia buồn, nhập quan, 9 tuần cửu, Tiểu Tường, Đại Tường.
Đối với những người có ăn chay tối thiểu 10 ngày/tháng, giữ giới từ hàng Hạ Thừa trở lên, bất luận tôn giáo nào, thì khi chết đi, mỗi lần tụng Kinh Cầu Siêu xong sẽ được tụng tiếp bài Kinh Khi Đã Chết Rồi. Tụng hai bài xen kẽ nối tiếp nhau 3 lần, tụng xong thì niệm câu chú của Thầy 3 lần.
Như vậy, chân hồn sẽ được trợ duyên để gặp Thầy Mẹ một lần nơi Thượng Giới. Sau đó, các chân hồn ấy tùy theo tội phước, xét mình tại Minh Kính Đài mà quyết định đầu thai chuyển kiếp hoặc thăng giáng phẩm vị đã từng có.
Đối với những người không ăn chay tối thiểu 10 ngày/tháng, bất luận tôn giáo nào, dù là người thường hay đã từng mang nơi mình phẩm vị cao trọng tương đương Đại Pháp Sư đi chăng nữa, mà khi gần chết không giữ giới được từ hàng Hạ Thừa trở lên, thì tuyệt đối không được tụng bài Kinh Khi Đã Chết Rồi. Chỉ được tụng bài Kinh Cầu Siêu 3 lần, tụng xong thì niệm câu chú của Thầy 3 lần. Hành tàng của những chân hồn này sẽ do thiện nghiệp bù trừ ác nghiệp của họ mà cố gắng vượt lên Thượng Giới tùy theo khả năng tinh tấn.
Nếu cố tình trợ niệm để đưa họ lên Thượng Giới, thì những chân hồn nặng trược do còn ăn thịt cá nhiều, oán khí, sát khí nặng nề sẽ trở thành một vật chất tiếp điển quang sấm sét. Rồi khi lên kia, có khi chưa được gặp Thầy Mẹ đã phải tan thành tro bụi mà uổng phí một kiếp sanh may duyên gặp Đạo.
Chân hồn lúc ấy phải trở về Kim Bồn của Mẹ, được Mẹ dùng Âm Dương Thuật để hiệp lại Khí Thần, rồi lại phải nhập trần đầu kiếp từ vật chất, lên thảo mộc, cầm thú, rồi mới đến con người. Phải trải qua không biết bao nhiêu kiếp, lại phải tiếp tục vòng xoay vay vay trả trả của duyên nghiệp tiền kiếp, khổ não lắm thay.
Vậy nên chư hành giả đừng vì sự quan tâm, yêu thương mà làm sai luật trong việc dụng pháp trợ duyên, sẽ chẳng có kết quả tốt đẹp.
….……………….
* Phụ lục một số từ ngữ trong bài kinh:
- Lân mẫn ân cần: Thương yêu chăm sóc, thương xót.
- Lê thứ: Những người dân nghèo khổ, ý chỉ về chúng sinh thuộc mọi tầng lớp từ giàu đến nghèo đều đang đọa lạc đau khổ cõi trần.
- Đại Thánh: Chỉ về sự linh hiển, màu nhiệm cao siêu.
- Bố: Rộng khắp, ban rải, chan rưới ra khắp nơi.
- Tế: Cứu giúp.
- Bạt: Cất lên, đưa lên.
- Dạ đài: Chỉ về các nơi ở cõi Âm Quang tối tăm mù mịt thiếu ánh sáng.
- Luy tiết: Gông cùm, xiềng xích trói buộc.
- Tiền khiên: Tội lỗi, ác nghiệp đời trước.
- Cung Tiên: Chỉ về các cung điện của chư vị cao trọng ở cõi Thiên.
- Phước Địa: Vùng đất tốt đẹp, thiện lành.
- Sở nguyện: Điều mong mỏi, nguyện ước tương đồng.
- U hiển: Nơi tối tăm hiển thị rõ ràng.
- Khương ninh: Khỏe mạnh, an vui.
Cầu siêu: Cầu là xin, siêu là vượt lên cao, siêu thăng.
Cầu siêu là cầu xin các Ðấng thiêng liêng cứu giúp linh hồn người chết cho được siêu thăng.
Kinh Cầu siêu: là bài Kinh tụng cầu xin Ðức Chí Tôn và các Ðấng thiêng liêng Phật Tiên Thánh Thần ân xá tội tình và cứu giúp linh hồn người chết được siêu thăng.
Hội Thánh có ghi chú dặn rằng: “Khi tụng hết bài Kinh Cầu siêu thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,…) vì sợ e cho vong hồn hoặc là người không tu mà Hội Thánh mới độ hồn, hoặc là đạo hữu phạm thệ mà đi xuống cõi Phong đô, nên trước phải tụng bài Kinh Cầu siêu (Ðầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,….) hầu cho vong hồn hồi dương đặng rồi thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,…) đặng vong hồn hưởng phép siêu thăng tịnh độ.
Phải tụng xen kẽ như vậy cho đủ 3 lần. Khi dứt, niệm Câu Chú của Thầy 3 lần.”
Câu 1-2: Ðầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ, A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.
GIẢI NGHĨA
Ðầu vọng bái: Ðầu là cái đầu, vọng là trông ngóng, bái là lạy. Ðầu vọng bái là cúi đầu cầu khẩn lạy xuống.
Tây Phương: Hướng Tây, chỉ cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây.
Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca sáng lập Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo, nên gọi Ðức Thích Ca là Phật Tổ.
A-Di-Ðà Phật: Phiên âm từ tiếng Phạn: AMITABHA, dịch là Vô Lượng Quang Phật hay Vô Lượng Thọ Phật. Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới. Nay là thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài giao quyền lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới, và Ðức A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự.
Ðộ: Cứu giúp.
Chúng dân: Dân chúng, chỉ chung nhơn sanh hay nhơn loại.
Câu 1-2: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Phật Tổ và Ðức Phật A-Di-Ðà ở cõi Cực Lạc Thế Giới, xin cứu giúp nhơn sanh.
Câu 3-4: Quan Thế Âm lân mẫn ân cần, Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.
GIẢI NGHĨA
Quan Thế Âm: Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Như Lai, Quán Thế Âm Phật.
Ðối với Phật giáo Tây Tạng, Quán Thế Âm Phật là một vị Phật Nam, hộ trợ xứ Tây Tạng. Dân chúng Tây Tạng đều tin rằng, Ngài chuyển hóa vào thân Ðức Vua Ðạt Lai Lạt Ma, cai trị xứ Tây Tạng, nên họ xem Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là vị Phật Sống của họ. Ðức Quan Thế Âm có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt và có 108 hồng danh.
Ở nước Trung Hoa và Việt Nam, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Phật Nữ, do 2 truyện tích: Quan Âm Thị Kính và Công Chúa Diệu Thiện.
Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát đã đắc quả Phật, nhưng Ngài đại nguyện xuống cõi Ta Bà cứu khổ cứu nạn chúng sanh, nên Ngài vẫn mang danh Bồ Tát. Bất cứ hạng nào trong chúng sanh, khi bị quá sức đau khổ, hay bị lâm nguy tánh mạng, như gặp phải nạn lửa cháy, chìm tàu, oan ức tù đày, … , nếu thành tâm niệm danh hiệu cầu cứu Ngài, hoặc tụng bài Kinh Cứu Khổ, thì Ngài liền hiện thân tới cứu giúp.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Ðức Chí Tôn làm Ðệ nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo, nêu cao gương từ bi bác ái tế độ của Phật.
Lân mẫn: Lân là thương xót, mẫn là lo lắng. Lân mẫn là thương xót và lo lắng giúp đỡ.
Ân cần: Săn sóc đầy đủ với lòng thương mến.
Vớt: Cứu vớt.
Lê thứ: Dân đen, dân chúng nghèo khổ. Lê là màu đen, thứ là nhiều.
Khổ trần: Những nỗi đau khổ nơi cõi trần.
Ðọa lạc: Phạt rơi xuống chỗ thấp kém, tối tăm, khổ sở. Ðọa là bị phạt xuống chỗ tối tăm khổ sở, lạc là rơi rụng.
Câu 3-4: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, xin thương xót, lo lắng ân cần cứu vớt dân chúng nghèo khổ đang bị đày đọa khổ sở nơi cõi trần.
Câu 5-6: Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Bố từ bi tế bạt vong hồn.
GIẢI NGHĨA
Ðại Thánh: Bực Thánh lớn.
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát: Phật hiệu nầy có ý nghĩa như sau: Ðịa là đất, Tạng là chứa, đất chứa và chở muôn vật, vì Ngài có lập nguyện độ vô số chúng sanh ở hằng hà sa số thế giới, không một chúng sanh nào ra khỏi tự tâm của Ngài. Ngài lại còn Ðại nguyện: Ðịa ngục mà còn chúng sanh thì Ngài chưa chịu thành Phật.
Do lời Ðại nguyện nầy, Ðức Chí Tôn phong Ngài làm U Minh Giáo chủ (hay Phong Ðô Ðại Ðế), cai quản cõi U Minh Ðịa phủ (cũng gọi là cõi Phong Ðô). Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, giải tán Ðịa ngục, phóng thích các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả. Ðức Chí Tôn lập ra một cõi mới là cõi Âm Quang để các linh hồn tội lỗi đến đó xét mình và học Ðạo, nhận biết lỗi lầm của mình mà ăn năn sám hối, cầu khẩn Ðức Chí Tôn cứu rỗi. Do đó, Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát trở thành Giáo chủ cõi Âm Quang, giáo hóa các Nam tội hồn; còn các Nữ tội hồn thì có Thất Nương Diêu Trì Cung đến giáo hóa.
Bố: Bày ra, cho.
Từ bi: Lòng thương yêu chúng sanh và lúc nào cũng muốn giúp chúng sanh thoát khổ.
Tế: Giúp đỡ.
Bạt: Nhảy qua, vượt qua.
Vong hồn: Linh hồn người chết.
Câu 5-6: Ðức Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát mở lòng từ bi cứu giúp các vong hồn vượt qua biển khổ.
Câu 7-8: Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn, Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.
GIẢI NGHĨA
Khổ nàn: Khổ nạn, tai nạn khổ sở.
Miền Âm cảnh: Cõi Âm phủ, cõi Ðịa ngục.
Ngục môn: Cửa ngục.
Giải: Cởi bỏ.
Câu 7-8: Xin Ðức Thái Ất Thiên Tôn cứu giúp các tai nạn khổ sở, xin khai mở và bỏ đi các cửa ngục nơi cõi Âm phủ.
Câu 9-10: Ơn Ðông Nhạc Ðế Quân quảng đại, Ðộ kẻ lành chế cải tai ương.
GIẢI NGHĨA
Ðông Nhạc Ðế Quân: Vị Thần làm đầu Ngũ Nhạc, cai trị phần hồn của nhơn loại. Tương truyền, ai mới thác xuống, linh hồn phải đến cho Thần Ðông Nhạc tra xét tội phước, rồi đến lúc đi đầu thai, cũng phải đến cho Thần Ðông Nhạc liệu định đường luân hồi.
Theo truyện Phong Thần, 5 vị Thần Ngũ Nhạc chia ra ở trên 5 hòn núi theo 4 hướng: Ðông, Tây, Nam, Bắc và ở Trung ương, kể ra:
Hoàng Phi Hổ: Ðông Nhạc Thái Sơn, Tề Thiên Nhân Thánh Ðại Ðế, làm đầu Ngũ Nhạc.
Sùng Hắc Hổ: Nam Nhạc Hành Sơn, Tư Thiên Chiêu Thánh Ðại Ðế.
Thôi Anh: Bắc Nhạc Hằng Sơn, An Thiên Huyền Thánh Ðại Ðế.
Tưởng Hùng: Tây Nhạc Hoa Sơn, Kim Thiên Thư Thánh Ðại Ðế.
Văn Sính: Trung Nhạc Tung Sơn, Trung Thiên Sùng Thánh Ðại Ðế.
Năm vị Thần Ngũ Nhạc có bổn phận xem xét họa phước cho dân.
Quảng đại: Lòng dạ bao la rộng rãi.
Ðộ: Cứu giúp.
Chế cải: Sửa đổi cái cũ để làm ra cái mới.
Tai ương: Ðiều hại lớn. Tai là điều hại lớn, ương là xấu.
Câu 9-10: Ðông Nhạc Ðế Quân có lòng rộng rãi, ban ơn cứu giúp người lành và sửa đổi cho bớt tai ương.
KHẢO DỊ: |
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 68, 74, 75: …… quảng đại. Ðộ kẻ lành ….. |
* Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo 1973: …… khoan đại. Hộ kẻ lành ….. |
Khoan đại đồng nghĩa Quảng đại. Ðộ là cứu giúp. Hộ là che chở, giữ gìn. |
Xét trên ý nghĩa của câu kinh 10, dùng chữ: “Hộ kẻ lành” thì đúng hơn là “Ðộ kẻ lành”, bởi vì người lành rồi thì không cần độ nữa, mà chỉ cần hộ trì cho họ được lành mãi. Còn độ là độ kẻ chưa lành, độ kẻ tội lỗi, cho họ trở nên lành.
Ðức Chí Tôn có nói rằng: “Thầy lại nói, buổi lập Thánh đạo, Thầy đến để độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu đến nhọc công Thầy.” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 44)
Câu 11-12: Chốn Dạ đài Thập Ðiện Từ Vương, Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.
GIẢI NGHĨA
Dạ đài: Lầu đài ban đêm, tức là lầu đài cung điện nơi cõi Âm phủ. Dạ là đêm thuộc về Âm, đài là lầu đài.
Thập Ðiện Từ Vương: 10 vị vua nhơn từ cai quản 10 cửa ngục nơi cõi Âm phủ, thường gọi là Thập Ðiện Diêm Vương, dưới quyền của Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
Thập Ðiện Diêm Vương gồm 10 vị, kể ra sau đây :
Nhứt Ðiện: Tần Quảng Vương cầm sổ sống chết.
Nhị Ðiện: Sở Giang Vương coi Ðẳng Huợt Ðại Ðịa ngục.
Tam Ðiện: Tống Ðế Vương coi Hắc Thắng Ðại Ðịa ngục.
Tứ Ðiện: Ngũ Quan Vương coi Chúng Hiệp Ðại Ðịa ngục.
Ngũ Ðiện: Diêm La Vương coi Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
Lục Ðiện: Biện Thành Vương coi Ðại Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
Thất Ðiện: Thái Sơn Vương coi Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
Bát Ðiện: Bình Ðẳng Vương coi Ðại Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
Cửu Ðiện: Ðô thị Vương coi A-Tỳ Ðại Ðịa ngục.
Thập Ðiện: Chuyển Luân Vương coi việc cho đi đầu thai.
Câu 11-12: Nơi cõi Âm phủ, Thập Ðiện Diêm Vương nhơn từ, thấy tội nhơn bị hình phạt khổ sở thì đem lòng thương xót thảm thiết.
Câu 13: Giảm hình phạt, bớt đường luy tiết.
GIẢI NGHĨA
Luy tiết: Luy là sợi dây dùng để trói kẻ có tội; tiết là sợi dây dùng để trói. Luy tiết là trói buộc kẻ có tội, ý nói cảnh giam cầm tù tội.
Câu 13: Làm cho giảm bớt những hình phạt và giảm bớt việc giam cầm tù tội.
KHẢO DỊ: |
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 74, 75: … ly tiết. |
* Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo năm 1973: … luy tiết. |
Từ ngữ “ly tiết” không có nghĩa nào thích hợp với câu kinh nầy. Vả lại, người bình dân đọc 2 chữ LY và LUY như cùng một âm. Do đó, câu kinh nầy phải viết là LUY TIẾT mới đúng.
Câu 14: Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.
GIẢI NGHĨA
Xá: Tha cho, xá tội.
Linh quang: Ðiểm Linh quang do Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người để làm linh hồn.
Xá linh quang: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn.
Tiêu diệt: Làm cho mất hẳn đi.
Tiền khiên: Những lỗi lầm đã gây ra trong kiếp sống trước. Khiên là lỗi lầm, tiền là trước.
Câu 14: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn và tiêu diệt hết các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp trước.
Câu 15-16: Ðặng nhẹ nhàng thẳng đến Cung Tiên, Nơi phước địa ở yên tu luyện.
GIẢI NGHĨA
Cung Tiên: Chỉ cõi Tiên, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Phước địa: Ðất phước, vùng đất lành và an vui.
Tu luyện: Tu là sửa đổi đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tìm đường Thiên lý; luyện là rèn, trau giồi cho sáng suốt. Tu mà không luyện thì chẳng khác chi một cục sắt, không rèn giũa thì làm sao trở thành món đồ dùng hữu ích.
Câu 15-16: Linh hồn được nhẹ nhàng bay thẳng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, và ở yên nơi đất phước để lo tu luyện.
Câu 17-18: Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện, Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
GIẢI NGHĨA
Sở nguyện: Ðiều quan trọng mà mình mong mỏi trong lòng.
Hộ: Che chở giữ gìn.
Thương sanh: Những người sống thấp kém nghèo khổ, chỉ chung nhơn sanh. Thương là màu xanh, sanh là sống.
U hiển: U là tối tăm, chỉ cõi Âm phủ; Hiển là hiện ra rõ ràng, chỉ cõi Dương gian. U hiển là chỉ cõi Âm phủ của người chết và cõi Dương gian của người sống.
Khương ninh: Mạnh khỏe an ổn. Khương là mạnh khỏe, ninh là an ổn.
Câu 17-18: Xin Ðức Chí Tôn và chư Phật chứng điều sở nguyện và xin gìn giữ che chở nhơn sanh ở cõi Âm cũng như ở cõi Dương được mạnh khỏe và an ổn.