KINH VỀ LÒNG NHÂN ÁI – KINH TÂM TỪ (KARANIYA METTA SUTTA)
Bối cảnh hình thành của bài Kinh về lòng Nhân Ái theo Kinh Điển Nguyên Thủy:
Có một lần Đức Phật đang ngụ tại thành Xá Vệ (Savatthi) thì có một nhóm tỳ kheo từ nơi xa đến đây tìm Ngài để được nghe giảng về các phép thiền định. Sau đó thì họ tìm đến một khu rừng gần đấy để an cư trong mùa mưa (Vassana). Thế nhưng các vị thần linh ngụ tại các gốc cổ thụ trong rừng rất đỗi lo ngại vì nhóm người tỳ kheo có thể quấy rối và làm mất đi cảnh thâm u nơi khu rừng của họ. Các vị thần linh liền hiện ra và tỏ vẻ không bằng lòng và mong rằng nhóm người tỳ kheo sẽ sớm rời khỏi nơi này. Thế nhưng họ lại cứ tiếp tục lưu lại vì thời gian kiết hạ kéo dài đến ba tháng. Vì thế cứ đêm đêm các vị thần linh lại hiện ra để quấy phá và dọa nạt họ.
Các vị tỳ kheo không thể an tâm mà thiền định trong quang cảnh đầy sợ hãi ấy, họ đành phải tìm đến Đức Phật để bày tỏ sự lo âu của mình. Đức Phật liền giảng cho họ bài Kinh về lòng Nhân Ái và khuyên họ hãy cứ quay về nơi khu rừng trước đây và dùng bài kinh này để tự che chở cho mình.
Các vị tỳ kheo quay trở lại nơi trú ngụ trước đây và đem bài kinh ra tụng niệm. Khi họ tụng niệm thì một bầu không khí êm ả, tràn ngập yêu thương và lòng nhân từ vụt tỏa rộng trong khắp khu rừng âm u. Các vị thần linh đều bị chấn động bởi sức mạnh vô biên của tình nhân ái phát động trong lòng các vị tỳ kheo. Thế rồi các vị thần linh cũng cảm thấy thiện cảm đối với những người tu hành và đã để yên cho họ thiền định trong quang cảnh êm ả của khu rừng.
KINH VỀ LÒNG NHÂN ÁI
I
Ai hằng thực hiện được những điều tốt lành,
Và mưu cầu đạt được thể dạng an bình thì phải hành động như sau:
Phải cố gắng, ngay thật và hoàn toàn liêm khiết,
Tuân thủ, hòa nhã và nhún nhường.
II
An phận, không tạo ra gánh nặng cho người khác,
Từ bỏ các mối lo toan thế tục, chọn một nếp sống đơn sơ,
Chủ động được xúc cảm, thận trọng, không xấc xược,
Không tranh giành với các người quyến thuộc trong gia đình.
III
Không phạm vào một sai lầm nhỏ nhoi nào,
Khiến các vị hiền nhân có thể chê trách.
Ước nguyện tất cả chúng sinh được hạnh phúc và an lành,
Và trong thâm tâm họ, niềm hân hoan luôn hiển hiện.
IV
Nguyện cầu cho tất cả chúng sinh có giác cảm,
Dù yếu đuối hay khoẻ mạnh,
Khẳng khiu, béo phì hay trung bình,
Thấp lùn, nhỏ bé hay gọn gàng.
V
Các chúng sinh nhìn thấy hay không nhìn thấy,
Đang ở bên cạnh hay trong những nơi xa xôi,
Đang hiện hữu hay mong muốn sẽ được sinh ra,
Không gạt bỏ một chúng sinh nào, tất cả đều tìm thấy an vui.
VI
Cầu xin tất cả mọi người đừng lường gạt lẫn nhau,
Dù ở tận chốn nào, cũng không khinh miệt lẫn nhau,
Dù oán giận hay hận thù,
Cũng không làm hại nhau.
VII
Tương tự như người mẹ che chở cho đứa con duy nhất,
Dù phải hy sinh cả tánh mạng mình,
Thế nhưng luôn phải hướng vào tất cả chúng sinh,
Với tâm từ vô hạn.
VIII
Hãy trải rộng tình thương vô biên trong khắp thế gian này,
Từ trên cao, dưới thấp và trong khắp mọi hướng,
Không có gì cản ngăn,
Không mảy may căm ghét, chẳng một chút hận thù.
IX
Dù đang đứng, đang đi, đang ngồi,
Hay đang nằm, trong những lúc tỉnh táo,
Luôn phát động một tâm linh tỉnh thức.
Đấy là cách sống cao quý nhất trong thế gian này.
X
Không rơi vào các quan điểm,
Hướng vào đạo đức và phát huy sự quán thấy,
Không bám víu vào những thèm khát giác cảm,
Người ấy sẽ không bao giờ còn quay lại để nằm trong một tử cung nào nữa.
Vững tin vào sự thực đó – tôi cầu xin được mãi mãi tìm thấy an vui!
Vững tin vào sự thực đó – tôi cầu xin tránh khỏi mọi ốm đau!
Vững tin vào sự thực đó – tôi cầu xin đạt được sự an bình.
– St –