Lược giải Ngũ Chi Đại Đạo
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
Ngày 15 tháng 12 năm Nhâm Thìn (1952)
Phật Ðạo, Tiên Ðạo, Thánh Ðạo, Thần Ðạo, Nhơn Ðạo
Ðức Siddhārtha (Đức Thích Ca) là người miền xứ Shakya, lấy lòng nhân bao trùm thiên hạ, tầm thêm đặng chơn lý Sanh Khổ mà lập thành Phật Giáo, nên dùng đoạn trái oan trừ nghiệt chướng đặng làm phương giải thoát luân hồi.
Ấy là giữa chốn khổ não đau thương, Ngài lại đem tánh từ bi tự tại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh chúng tương thân tương ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trược nhớp nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm ngào ngạt.
Ngài nhờ Sanh, Lão, Bịnh, Tử là Tứ Khổ, giác minh bổn thiện mới đạt phương cứu khổ loài người.
………
Ðức Lý Lão Ðam (Đức Lão Tử) là Đức Thái Thượng Lão Quân phân tánh nhập trần, vì lòng nhân phổ độ thế gian, nên tìm đặng chơn lý tinh thần vi chủ, trừ khử phương dĩ vật lụy hình, định tự chủ ký tâm là diệu pháp, lại lấy phép an nhàn làm cơ thoát tục. Ấy đời là cảnh sầu thảm khó khăn mà Ngài đến bày phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào người đương ngậm đắng trêu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt. Ngài nhờ quyền vật dục trong trường công danh phú quí của lục quốc phân tranh, tạo ác đã vô ngằn, nó thức minh ‘Bổn thiện’ của Ngài, nên Ngài ái dân sanh mới truyền phương thoát khổ.
……..
Ðức Chúa Jésus De Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhân cứu thế lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn bác ái nhân sanh đặng thay mặt Chí Tôn khai hóa, xem phổ tế chúng sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật mạng sanh hành thiện đạo, diệt dị đoan trừ mê tín, dụng chân lý để răn đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, ấy trí huệ vẽ tươi thiên cảnh.
Ngài hằng dạy rằng: cái khổ của thế gian là sự nghiệp của con người, phải thọ khổ mới rõ cơ thoát tục.
Ấy là đời đang giả dối mà Ngài đem chân thật ra khử trừ chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ dằn mà Ngài đờn tiếng thanh tao hòa nhã.
Ngài nhờ Ðạo Luật của Moise, thế kỷ ấy quyền hành biến đổi nên sanh nhiều chi tả đạo bàn môn, lại thế lực của Caiphe (Caiaphas) về bên mặt phần hồn rất nên mạnh mẽ buộc dân Do Thái (Juifs) nhiều lẽ nên tà. Cả mê tín của dân Giu Ðê buổi ấy luận không cùng.
Quyền luật đời nước La Mã (Rome) của César nghiêm khắc khốc hại sinh linh đồ thán.
Những nguyên ủy khai minh ‘Bổn Thiện’ của Ngài làm cho Ngài phải cam tâm gánh vác cả sự đau đớn của loài người, cũng bởi ái truất thương sanh chịu tử tội đặng truyền gương thọ khổ.
…
Khương Thái Công gọi là Thái Công Vọng hay là Khương Tử Nha, vâng lịnh Ðức Ngươn Thỉ Thiên Tôn ở Côn Lôn Sơn lấy Phong Thần bảng đến giúp nghiệp Châu, cũng vì nhơn sanh mà khai minh chơn lý của quyền hành thưởng phạt Thiêng Liêng giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn, tôn sùng trung liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt của xác thân, ấy là dụng phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế.
Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng nạn ác đã đào tạo kiếp sống của con người, chẳng trốn khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt Thiêng Liêng có đủ quyền năng cả xác cùng hồn. Thế thì có trí tuệ của loài người, còn Ðạo lại có Thần Minh giám sát. Triết lý Thần linh nghĩa là:
“Quyền phép của lương tâm do đó mà lập thành căn bản và năng lực vận hành hiện tượng của tư tưởng cùng bổn nguyên thần pháp đặng nảy sanh.”
Ôi! Cũng vì cớ quả nhiên sự thật bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.
Tuy vân chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài biết tùng lịnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Ðức Nguơn Thỉ Thiên Tôn thì công ấy cũng đủ làm đầu Thần Giáo.
Ðời khi ấy dường như bị phát bởi ung thư, chịu đau đớn sầu than chẳng xiết mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.
Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nghĩa của nhà Châu: Vua Văn Vương và Võ Vương giục khai ‘Bổn Thiện’ nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực giúp đạo đức, khử bạo tàn thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa, tuy đôi bên Thương Châu khác giá mà đối với lực trung can trí dũng, vị quốc vong xu (vì nước bỏ mình), Ngài vẫn giữ dạ vô tư trong Thần Vị, chỉ ngó mặt công phong tước phẩm.
…
Ðức Khổng Phu Tử tự là Trọng Ni cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo của đời nên lo trù hoạch phương châm giảm ác mới đạt đặng triết lý chí thiện là cơ quan bảo thế. Ngài đắc thông nên tự nhiên biết rằng cơ tạo, nghĩa là trời đất và vạn vật hữu hình, phải tấn hóa lần lần cho tận con đường chí thiện.
Người thì tận thiện, vật thì tận mỹ gọi là Ðạo, Ngài chỉnh chiếu theo sự tự nhiên hành động theo tâm lý của người đời đặng làm mục đích chuẩn thằng đoán xét, ngoài phép an tâm luyện tánh Ngài không nhìn phương pháp nào tự giác đặng ‘Bổn Thiện’ và kềm chế lấy điểm lương tâm nên không chịu tin theo thuyết mỹ thuật huyền vi mà trí khôn ngoan của người không thấu đáo.
Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản kháng thế nào cũng tùy theo một chủ quyền chính thể hoặc là do nơi đông tay xúm nhau đào tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm Chúa đời, cầm luật pháp trị bá tánh. Ngài cho chánh trị hành tàng của xác thịt thế nào thì chánh trị tinh thần cũng vậy, nên nhìn nhận rằng các chủ quyền trị thế, có quyền vô vi của Ðấng Chí Tôn, Ngài gọi là Nhứt Ðại nên viết Thiên, nắm trong tay phép Thiêng Liêng thưởng phạt. Ðấng Chí Tôn ấy chẳng phải có quyền năng về phần hồn mà thôi lại cũng đặng oai linh phần xác, lý thuyết Trời và Người đồng trị nảy sanh ra trí đó.
Cơ nghiệp Văn Vương qua đến Ðông Châu là cùng vận mà Ngài cố quyết duy trì, mong lòng hiệp quốc đem luật đặng trị bình, lấy nghĩa nhân ra đặng khử bạo.
Ngài hiểu rõ ràng quyền hành chánh trị chia ra hai phần:
– Sanh hoạt của thi hài.
– Biến hóa về tâm lý.
Nên Ngài cho luật pháp là cơ quan độc thiện để trị an thiên hạ, còn đạo nhơn nghĩa đủ thế kềm thúc tánh đức người đời, nên Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở vọng chấn hưng.
Thương thay một Ðấng Chí Thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề thất vọng, bởi gặp buổi đời quá bạo tàn nên cây quạt và mảnh mền là Ðạo Nhơn nghĩa của Ngài không đủ thế quạt nồng đắp lạnh, Ngài phải thối bước về quê cam phận thiệt thòi ngồi dạy học.
Bài tự thán ‘Chi Lan’ của Ngài ai đọc đến cũng phải rơi châu đổ ngọc. May thay! Qua đến đời Khổng Cấp (Tử Tư) là đích tôn của Ngài dạy đặng một trang môn đệ là Mạnh Tử rất nên Ðấng hiền triết nối chí của Thánh Nhơn cố mở mang đại học.
Triết lý của Mạnh Tử là tại Minh Ðức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. Người đi châu lưu nước nầy qua nước nọ, lấy nhơn nghĩa đặng khuyến khích nhơn tâm cảm hóa các chư hầu, chỉnh đốn chế chuyên Vương Ðạo. Thật ra các xã hội Á Ðông nầy đã nhờ ảnh hưởng công nghiệp của Người lắm lắm.
Ðời Ðông Châu sôi nổi, giặc giã chiến tranh cả ác hành, sử chép không cùng mà qua đến đời của Người thì trở lại như xưa, tin dùng ‘Bổn Thiện’ thật tài chính trị của Ngài rất nên siêu việt.
Thời Ðông Châu Liệt Quốc là trường chiến đấu, đua tranh giành quyền lợi mà Ðức Khổng Phu Tử giáo minh ‘Bổn Thiện’ của Ngài mới đắc pháp cao thâm Chí Thiện.
Những triết lý Thánh Hiền dầu cổ kim cũng thế, cốt để dìu dắt nhơn sanh đi thong thả trên con đường lành cho cùng tận, đặng phục nguyên bổn thiện của mình, các tôn giáo gọi tên là Ðạo. Ngày nào ‘Bổn Thiện’ đã phát minh thì cảm hóa chúng sanh rộng thế.
– Nhỏ thì làm cho một gia đình thiện hành gia pháp.
– Trọng thì giúp quốc gia xã hội thiện hành quốc chánh.
– Còn tối đại thì làm cho toàn thiên hạ đặng thiện giao hiệp chủng đại đồng.
Thuyết Ðạo Quyển 5 – trang 99
….…………..
Tam Giáo Quy Nguyên Ngũ Chi Phục Nhất là mọi lẽ pháp duyên tùy thời, tùy nơi, tùy duyên ứng hiện diệu dụng, đưa người giải thoát khỏi biển mê trở về với Bỉ Ngạn.
“Đại Đạo Đồng Nguyên” là dù con đường nào cũng rồi trở về một gốc Bổn Thiện, như trăm sông đổ về biển lớn dung chứa mọi dòng chảy vậy.
….……..

Trong Cùng là Thánh Tượng Thiên Nhãn trên Quả Càn Khôn, tượng trưng Thần Minh sáng soi khắp vũ trụ bao la.
Từ trái qua hàng trên:
Đức Lão Tử, Đức Thích Ca, Đức Khổng Thánh. Đây là tôn tượng của các Đấng Tam Giáo Tổ Sư.
Từ trái qua hàng thứ hai:
Đức Quan Âm Bồ Tát, Đức Thái Bạch Kim Tinh, Đức Quan Thánh Đế Quân. Đây là tôn tượng của ba Đấng Tam Trấn Oai Nghiêm Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Hàng kế tiếp là Đức Chúa Jesus.
Tiếp theo hàng kế nữa là Đức Khương Thái Công.
…
Tính hàng giữa từ trên xuống thì gọi là Ngũ Chi Đại Đạo gồm có:
- Đức Thích Ca đại diện Phật Đạo
- Đức Thái Bạch Kim Tinh đại diện Tiên Đạo
- Đức Jesus đại diện Thánh Đạo
- Đức Khương Thái Công diện Thần Đạo
- Ngai Giáo Tông Đại Đạo, đại diện cho Nhơn Đạo.
Tất cả chư vị đều là hàng trọn lành, đẳng cấp linh hồn ở phẩm Phật Vị, chỉ là trong Tam Giáo Ngũ Chi Đại Đạo Đồng Nguyên thì chư vị đại diện, tượng trưng cho con đường tu dưỡng, các nấc thang tấn hóa tinh tấn của linh hồn từ Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo và cuối cùng là về với Đại Đạo chính là Thánh Tượng Thiên Nhãn trên Quả Càn Khôn.
Tam Giới Toàn Thư – 1806947212831173