Lịch sử và ý nghĩa của ngày vía Quan Thế Âm Bồ Tát
Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) là vị Bồ tát với hạnh nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu khổ đau của cuộc đời rồi tìm cách cứu giúp chúng sinh. Bồ tát có khả năng thị hiện vô biên thân, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng để cứu độ muôn loài.
Theo truyền thống Phật giáo, mỗi vị Phật và Bồ Tát đều có ngày vía riêng hằng năm. Ngày vía Quan Âm thuộc vào 3 ngày trong năm gồm có: ngày 19/2, ngày 19/6 và ngày 19/9 (Âm lịch). Vào 3 ngày này Phật tử khắp mọi nơi trên thế giới đều làm lễ hướng đến ngày vía Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo kinh nghiệm dân gian, những ngày này đều rất linh thiêng. Do đó, mỗi người cần thành tâm hướng về Quan Thế Âm Bồ Tát để được phù hộ độ trì.
Xem thêm: ngày vía của một vị Phật, Bồ Tát là gì?
1. Lịch sử và ý nghĩa
Theo truyền thống Phật giáo, mỗi năm sẽ có 3 ngày là ngày vía Quan Thế Âm Bồ Tát. Cụ thể:
- Ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày Quán Thế Âm Đảng Sanh.
- Ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày Quán Thế Âm thành đạo.
- Ngày 19 tháng 9 âm lịch là ngày Quán Thế Âm xuất gia.

1.1. Lịch sử ngày vía Quan Thế Âm Bồ Tát
Theo kinh Phật, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói, Đức Quân Âm là thái tử, con trai của vua Vô Tránh Niệm. Ngày đó, có vị Phật là Bảo Tạng Như Lai đã nhận thức được các đạo lý tối cao. Vua và thái tử theo học vị Phật này để có thể sớm thành Phật nhằm giúp chúng sinh thoát khỏi bể khổ.
Nhờ sự thành kính, cố gắng tu luyện, vua và thái tử được chứng thành Phật. Vua Vô Tránh Niệm được chứng thành Phật và phát nguyện 48 lời thề nguyện để tế độ tất cả chúng sanh, lấy hiệu là Phật A Di Đà. Còn thái tử, chứng thành bậc Đại Bồ Tát, hiệu là Quan Thế Âm. Bồ tát và Phật A Di Đà cùng dẫn dắt chúng sinh trở về cõi Cực Lạc.
Theo thần thoại, Quan Thế Âm là người có thần lực chỉ sau Phật tổ. Với chúng sinh, Ngài có tầm quan trọng rất lớn. Quan Âm hiện thân trong tất cả các hình dạng để cứu độ chúng sanh, nhất là trong các hoạn nạn về lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Riêng tại Việt Nam và Trung Hoa, hình ảnh của Quan Thế Âm là phụ nữ.
Xem thêm: Tại sao Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lại thị hiện thân nữ?
1.2. Ý nghĩa ngày vía Quan Âm
Ý nghĩa của ngày vía Quan Thế Âm Bồ Tất nằm ở trong chính cái tên của Ngài. Theo đó:
- Quan: Là quan sát, tìm hiểu về người khác.
- Thế: Là thế gian, cuộc đời, cuộc sống chúng sinh.
- Âm: Là tiểng thỉnh cầu của những chúng sinh sống trong đau khổ.
- Bồ Tát: Là cứu độ, cứu nạn, giúp chúng sinh vượt qua bể khổ.
Như vậy, Quan Thế Âm Bồ Tát là người luôn quan sát, lắng nghe tiếng kêu cứu khổ từ chúng sinh trong nhân gian để đến cứu. Ngài mang long từ bi, nhân ái, vị tha để đi cứu tất cả mọi người, không phận biệt ai. Vì thế, ngày lễ này có ý nghĩa nhắc nhở chúng sinh phải yêu thương mình và yêu thương mọi người. Từ bi với bản thân và từ bi với mọi người. Cứu độ bản thân và cứu độ mọi người. Để tất cả cùng nhau vượt qua những khổ đau của đường trần.
2. Ngày vía Quan Âm nên làm gì?
Quan Thế Âm Bồ Tát đại diện cho tình yêu thương, đại từ đại bi. Do đó, ở bất cứ nơi nào có khổ đau, ở đó có Quan Thế Âm Bồ Tát. Vậy nên trong ngày vía của Ngài, chúng ta làm những việc tốt để thể hiện lòng tôn kính. Cụ thể như sau.
2.1. Ngày vía Quan Âm nên ăn chay, làm việc thiện
Vào ngày lễ Quan Thế Âm Bồ Tát, các phật tử đều phát nguyện ăn chay, đi chùa. Hoặc họ sẽ tụng chú Đại Bi, in ấn kinh, làm từ thiện, phóng sanh để tạo phước lành. Tất cả những việc đó đều rất tốt trong ngày vía của Ngài. Ngoài ra, trong ngày này chúng ta không được tạo thêm tội (như sát sanh), luôn giữ tâm ý sạch, không nói và làm điều xấu, và hãy học cách thứ tha.
2.2. Ngày vía Quan Âm hãy nguyện yêu thương bản thân
Yêu thương bản thân là chấp nhận hết toàn thân tâm của mình. Có nghĩa, chúng ta phải chấp nhận điều tốt lẫn điều xấu. Khi yêu thương bản thân chúng ta mới giúp cho chính mình có cơ hội phát huy, bổ sung, hoàn thiện bản thân hướng đến những điều tốt đẹp hơn.
Ngày vía của Quan Âm, từ nguyên yêu thương bản thân chúng ta sẽ nghĩ đến những người xung quanh. Từ đó, chúng ta mới yêu thương, quan tâm và bao dung tất cả. Rồi dần dà, ta bỏ những điều xấu của chính mình, làm cho người khác hết lo lắng vì ta. Đây là một việc rất tốt cần làm trong ngày vía Quan Âm.
2.3. Ngày vía Quan Âm hãy nguyện nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên lẫn thuận cảnh
Quan Thế Âm Bồ Tát nhờ nhẫn nhịn mà vượt qua bao kiếp nạn. Vì thế, chúng sinh hãy học tính tốt này của Ngài. Nhờ chữ nhẫn chúng ta học được điềm tĩnh trong mọi nghịch duyên lẫn thuận cảnh. Nhờ nhẫn, chúng ta không còn kiêu ngạo trước mọi lời khen, tung hô. Nhờ nhẫn, chúng ta cũng không còn buồn phiền trước những điều đau khổ.
Tuy nhiên, cần lưu ý, nhẫn ở đây là nhẫn để tâm thanh nhàn. Điều này khác với chữ nhẫn trong cách nhẫn để tìm cách trả thù. Trong ngày vía Quan Âm, chúng ta hãy cùng nguyện một chữ nhẫn, để cuộc đời thêm tươi đẹp.
2.3. Ngày vía Quan Âm nguyện lắng nghe nỗi thống khổ của mọi người
Ngày vía của Ngài, chúng ta hãy nguyện được lắng nghe nỗi thống kể của tất cả mọi người. Vì khi ta tập lắng nghe, ta hiểu rõ hơn về những muộn phiền của người khác, và đồng thời giúp ta phát sinh lòng từ bi. Nhờ đây, chúng ta có thể giúp đỡ người khác, xoa dịu những khổ đau trong lòng họ. Và từ đó, chính họ và chính ta đều được giải tỏa những thống khổ chất chứa trong tâm hồn.
2.4. Niệm Tâm chú Om Mani Padme Hum của Quan Âm Bồ Tát
3. Cách bày trí và sắm lễ trong ngày vía Quan Âm
Hiện nay số lượng người theo đạo Phật và thờ Quan Thế Âm Bồ Tát ngày càng nhiều. Tất cả đều mong cầu Bồ Tát đại từ đại bi có thể phù hộ độ trì cho gia đình và mọi người bình yên, vượt qua mọi kiếp nạn. Dưới đây là một số lưu ý về cách bày trí và sắm lễ trong ngày vía Quan Âm mà mọi gia đình cần biết.
3.1. Một số lưu ý khi bài trí bàn thờ Quan Âm
- Bàn thờ Quan Âm không được đặt chung với tượng thần khác. Vì Quan Âm thanh tịnh, ăn chay, khi đặt chung với các thần khác nếu cúng đồ mặn sẽ không tốt.
- Nên đặt bàn thờ theo hướng “tọa Tây hướng Đông”. Tránh tuyệt đối không được quay tượng Quan Âm vào các hướng có nhà vệ sinh, cửa phòng ngủ và phòng ăn.
- Tượng Quan Âm cần đặt tránh hướng cửa, hành lang.
- Không để bàn thờ Phật ngang hoặc dưới bàn thờ gia tiên.
3.2. Cách bài trí bàn thờ Quan Âm
- Trên bàn thờ chính giữa là tượng Phật và bát hương thờ dưới chân phật. Hai bên là hai cây đèn, hay bên đèn là hai ly nước. Hai bên phía sau là 2 bình hoa và 2 đĩa hoa quả.
- Hai ly nước nên được thay hằng ngày. Nước nên là nước tinh khiết, nước lọc.
- Nhang cũng cần được thay hằng ngày.
- Không để bàn thờ bụi bẩn.
3.3. Cách sắm lễ cúng Quan Âm
- Sắm các lễ chay như hương, hoa tươi, quả chín, đèn, xôi chè. Không nên cúng dường các đồ ăn mặn như thịt, các món có tỏi, hành…
- Hoa tươi lễ Phật như hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu…
- Không nên bày lễ với quá nhiều đồ cúng. Chỉ cần nhang, đèn, hoa tươi, trái ngọt, nước trong là đủ.
- Điều cần nhất là thành tâm hướng về Quan Âm trong chính tâm mình.
Ô-Hay.Vn vừa giới thiệu đến bạn thông tin chi tiết về ngày vía Quan Âm. Đây là những ngày lễ rất linh thiêng và quan trọng, hy vọng trong những ngày này tất cả chúng ta cùng thành tâm hướng về Ngài, học những đức tính tốt đẹp, cao cả của Ngài, để cùng cứu chúng sinh thoát khỏi mọi nỗi thống khổ. Vào ngày linh thiêng này, gia đình nên kiêng cữ ăn mặn, nếu không tiện nấu món chay ở nhà, thì hãy tham khảo các quán chay ngon để đến thưởng thức nhé.
Xem thêm các bài viết về Quán Thế Âm Bồ Tát:
HỎI ĐÁP VỀ NGÀY VÍA QUÁN ÂM:
HỎI:
Bạch quý thầy, con thường mới chỉ biết tới ngày Khánh Đản của Đức Quán Thế Âm Bồ tát chứ chưa biết các ngày còn lại và ý nghĩa của các ngày vía này. Xin quý thầy giảng giúp chúng con hiểu ạ!
ĐÁP:
Trước tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem Bồ tát Quán Âm là ai, Bồ tát của Hạnh nguyện gì, và tại sao có 3 ngày vía, kinh của ngài là gì, và các hình tướng của Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Quán Âm ở Việt Nam hiện diện qua hình tướng nào, xin quý Phật tử hay nghiên cứu theo đọc thật kỹ để thấu hiểu.
Bồ Tát Quán Âm là ai?
Bồ tát Quán Thế Âm, còn được gọi là Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara Bodhisattva) chỉ xuất hiện và xuất hiện khá nhiều trong các kinh điển Đại thừa như Hoa nghiêm, Lăng nghiêm, Pháp hoa, Bát nhã Tâm kinh, Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, Đại Từ Đà la ni, Chuẩn đề Đà la ni… và rất nhiều các ký, sớ, giải, luận về Bồ tát. Ngài được xem là vị Đại bi (trong kinh Pháp hoa) nguyện cứu độ tất cả chúng sinh và Đại trí (trong Bát-nhã Tâm kinh) liễu ngộ năm uẩn đều là không.

Các kinh điển trên đều nói đến Bồ tát Quán Thế Âm với hình tướng nam tính, nam giới chứ không phải nữ giới. Bồ tát tượng trưng cho từ bi và trí tuệ. Ngài nghe hết tiếng kêu khổ, tiếng niệm danh hiệu ngài, tiếng cầu xin ngài để được như ý muốn, được cứu độ khỏi khổ đau, tai nạn…
Bồ-tát Quán Thế Âm được quan niệm là hình ảnh phụ nữ, là mẹ, là Phật… có lẽ dính dáng đến nguyên lý Mẹ mà rất nhiều văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo… theo đó đều có các thánh nữ. Đặc biệt, trong Phật giáo Mật tông Tây Tạng có thờ thánh mẫu Tara gồm nhiều vị. Truyền thuyết cho rằng vị Tara được sinh ra từ nước mắt của Đức Quán Thế Âm; rằng trong kiếp xa xưa, mẹ Tara đã là một vị công chúa quyết tâm tu, quyết giữ hình hài nữ giới cho đến khi thành Phật. Xin nói thêm, thánh nữ Tara còn được hiểu là hàng chục vị, có thể đến hơn một trăm vị, được phân biệt theo màu sắc của các tranh tượng. Tara màu xanh (Lục độ Tara) là vị tiêu biểu nhất.

Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn, nêu rất rõ và rất ấn tượng về ý nghĩa cứu khổ cứu nạn vẫn được coi là tượng trưng cho hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm.
Kinh cho ta thấy Bồ tát Quán Thế Âm là hình tượng nổi bật nhất của Đại Từ bi; những hóa thân của ngài gồm 33 hay 35 hình tướng để có thể thuận tiện cứu khổ cho chúng sinh. Lòng Đại từ bi ấy có thể xem như lòng mẹ đối với con cái, lại phù hợp với truyền thống của nhiều tôn giáo có một vị nữ được ví như là Mẹ của tất cả: Đức mẹ Kali, Đức mẹ Maria, Đức Mẫu… Do đó, mặc dù Bồ tát Quán Thế Âm có thể hóa thân thành Phật, Bích chi, Thanh văn, Phạm vương, Tự tại thiên, Đại Tự tại thiên, Đại tướng quân, Tỳ sa môn Thiên vương… Tiểu vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn, nam nữ Tỳ kheo… nét nổi bật nhất của hóa thân ngài vẫn là hình ảnh phụ nữ, hình ảnh mẹ hiền.
Kinh điển Đại thừa, đặc biệt là kinh Pháp hoa, được truyền sang Trung Quốc, các bản dịch chính kinh và phụ kinh của kinh này được phổ biến khá rộng từ năm 255 đến năm 601. Và quan niệm Bồ tát Quán Thế Âm mang hình tướng nữ giới được hình thành dần dần, đến đời Đường (618-907) thì hình tướng này hình như hoàn toàn phổ biến, nhất là trong giới bình dân, tạo thành một tín ngưỡng quan trọng.
Vì sao có 3 ngày vía Bồ Tát Quán Âm?
Hằng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày: 19/02, 19/06 và 19/09 đều theo âm lịch.
Nhưng đa phần chỉ biết suông là lễ vía Quán thế Âm thế thôi!
Thực ra trong Thiền môn nhật tụng cổ xưa đã ghi rõ:
- Ngày 19/02 là vía Quán thế Âm Đản Sanh.
- Ngày 19/06 là vía Quán thế Âm Thành Đạo.
- Ngày 19/09 là vía Quán thế Âm Xuất Gia.
Mong rằng bài viết này sẽ đem đến cho quý độc giả niềm tin chân chính và thành khẩn, luôn luôn tưởng niệm đến danh hiệu Quán thế Âm Bồ tát để được giao cảm hằng thường với Bồ tát, dù tai họa đến đâu Hữu Cầu Tắc Ứng.
Hãy chánh tín, lời nói của Chư Phật không bao giờ hư dối.
Nếu muốn biết đường lối thực hành theo Tông chỉ Bồ tát Quán Thế Âm thì chúng ta cùng nhau tham khảo bài yếu chỉ Phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25, kinh Diệu Pháp Liên Hoa của Thiền sư Thích Duy Lực biên soạn :
PHẨM PHỒ MÔN
Thứ Hai mươi Lăm.
Phổ môn là phổ biến thị hiện sức dụng thần thông của Tự tánh.
Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật: “Quán Thế Âm Bồ Tát vì nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm?”
Phật bảo: “Nếu có vô lượng chúng sanh chịu các khổ não, nhứt tâm xưng danh (nhứt tâm là chẳng có niệm nào khác) thì sức dụng Tự tánh Quán Thế Âm hiện ra, tất cả đều được giải thoát nên gọi là Quán Thế Âm, cũng gọi là Tự tánh tự độ”.
Sức dụng của Tự tánh được hiện ra thì vào lửa chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, dao chém chẳng đứt, thuốc độc chẳng giết được, ác quỉ chẳng hại được, lìa được tất cả tham sân si và tà kiến.
Năm thứ quán của Bồ tát Quán Thế Âm là gì?
1. Chân quán: là lập Chân để phá Vọng. Trước tiên phải xoay cái Tánh nghe trở về Tự tánh, thoát lìa âm thanh (sở nghe). Sở nghe đã tiêu thì Năng nghe cũng hết. Nên hai tướng động tịnh chẳng sanh, do đó sự dụng của lục căn (sáu giác quan) dung thông lẫn nhau gọi là nhĩ căn viên thông cũng gọi là “phản văn văn Tự tánh“.
2. Thanh tịnh quán: Là dùng thanh tịnh để đối trị sự ô nhiễm của năng sở. Năng nghe Sở nghe đã hết mà chẳng trụ nơi hết. Luôn cả tri giải về sự chẳng trụ cũng không.
3. Từ quán: Là độ cho chúng sanh được vui mà chẳng có năng độ gọi là Vô Duyên Từ.
4. Bi quán: Là độ cho chúng sanh lìa khổ mà chẳng có sở độ gọi là Đồng Thể Bi.
Khi Từ bi thể hiện thì ngã chấp (cái tôi ích kỷ) đều sạch. Tình cảm thương mến phát huy đến cùng tột, cũng như ánh sáng chiếu khắp mọi chúng sanh trong pháp giới vũ trụ, chẳng có thiếu sót. Như vậy được Hòa Quang Đồng Một (Nhiều đèn cùng chung một ánh sáng) Nên năng – sở đều diệt.
5. Quảng đại trí huệ quán: Là trí huệ chiếu khắp pháp giới, quảng đại siêu việt số lượng. Tất cả năng sở, sinh diệt đều diệt thì tịch diệt hiện tiền, đây là thực tướng vĩnh viễn tồn tại cũng như phẩm Phương Tiện đã nói : “Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng” vậy.
Phẩm này chỉ rõ sự diệu dụng của Tự tánh tự độ
“Quán Âm Diệu Trí Lực (diệu dụng của Tự tánh)
Năng cứu thế gian khổ”
Là nghĩa này vậy.
(Trích Yếu chỉ Kinh Pháp Hoa của Thiền sư Thích Duy Lực)
Các hiện thân của Bồ tát Quán Âm tại Việt Nam
Theo kinh Phẩm Phổ Môn, nếu có ai kêu cứu, và để cần hiện ra thân gì để cứu độ thì Quan Âm hiện ra thân đó như: thân quốc vương, thân tể tướng, thân nhi đồng, thân phụ nữ…” (phẩm Phổ môn).
Truyện tích về Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Nam Hải (Diệu Thiện) ở Việt Nam được hình thành dựa trên quá trình tiếp biến văn hóa và cơ sở “thị hiện” này.

Sự tích Quan Âm Thị Kính được lưu truyền phổ biến trong dân gian Việt Nam từ xưa qua nghệ thuật hát chèo, truyện thơ và gần đây nhất là truyện văn xuôi. Theo tác giả Nguyễn Lang, sách Việt Nam Phật giáo sử luận, tập II, “Truyện thơ Quan Âm Thị Kính (bản Nôm) hiện chưa biết được sáng tác trong thời gian nào. Bản Việt ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành năm 1911, gồm 788 câu lục bát và một lá thư Kính Tâm viết cho cha mẹ bằng văn biền ngẫu”.
Cứ vào nội dung của truyện Quan Âm Thị Kính thì có thể đây là một dị bản của Phật giáo Cao Ly (Triều Tiên): “Thị Kính là con gái của nhà họ Mãng, quận Lũng Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly”. Tuy vậy, bối cảnh của câu chuyện Quan Âm Thị Kính liên quan mật thiết đến một ngôi chùa cổ ở miền Bắc nước ta, Pháp Vân tự (chùa Dâu, Bắc Ninh). Và Phật Bà chùa Dâu được xem là Phật Bà Quan Âm Thị Kính, “Xem trong cõi nước Nam ta/Chùa Vân có Đức Phật Bà Quan Âm”.
Hình ảnh Quan Âm Thị Kính bồng con trên tay, qua nhiều dị bản rất gần gũi và tương đồng với những câu chuyện về Quan Âm đồng tử và Quan Âm tống tử. Theo các nhà nghiên cứu, tượng Quan Âm tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử tín ngưỡng tượng hình tại Việt Nam vào thế kỷ thứ XVII và đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ thứ XVIII, hiện nay vẫn còn bảo lưu tại nhiều chùa.
Truyện thơ Quan Âm Nam Hải gồm 1.426 câu, được lưu truyền trong dân gian trước cả truyện Quan Âm Thị Kính. Theo Nguyễn Lang (sđd), truyện Quan Âm Nam Hải vốn xuất phát từ một vị Tăng đời Nguyên bên Trung Hoa. Tích này được lưu truyền trên đất Việt kể từ khoảng cuối thế kỷ XIV hay XV và được Việt hóa. Bản Nôm cổ nhất của truyện Quan Âm Nam Hải vẫn chưa biết được khắc vào thời đại nào. Bản Việt ngữ đầu tiên Quan Âm diễn ca của Huỳnh Tịnh Của, ấn hành năm 1897.

Theo dị bản Việt hóa thì Quan Âm Nam Hải vốn là Diệu Thiện, công chúa thứ ba (về sau gọi bà Chúa Ba) con vua Diệu Trang (Subhavyùha) ở nước Hưng Lâm (có thể thuộc Ấn Độ). Nàng từ bỏ cuộc sống xa hoa của cung đình, vượt qua mọi ngăn trở của vua cha, cương quyết vượt biển đến động Hương Tích (chùa Hương ngày nay) tu hành và chứng quả tại đây. Truyền thuyết cho rằng, sau khi đắc đạo, công chúa Diệu Thiện biến thành Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cứu độ hoàng tộc và muôn dân.
Tượng thờ Quan Âm Nam Hải xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVI. “Trong một văn bia đời nhà Mạc năm 1578, học giả nổi tiếng đương thời là Nguyễn Bỉnh Khiêm cho biết tượng Diệu Thiện được tôn thờ tại chùa Cao Dương. Văn bia còn ghi rõ Diệu Thiện là một biểu tượng rất đặc thù của giáo lý từ bi trong đạo Phật. Quan Thế Âm nghìn tay nghìn mắt trước hết có liên hệ mật thiết với sự thực tập trì chú Đại bi, dần dần đã trở nên một biểu tượng rất lớn trong các chùa viện Phật giáo” (Thích Hạnh Tuấn, Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt).
Như vậy, các hình thái Quan Âm Nam Hải, Quan Âm đồng tử, Quan Âm tống tử, Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính đều bắt nguồn từ lòng từ bi, hiện thân cứu độ của Bồ tát Quan Thế Âm trong kinh Pháp Hoa. Những truyện tích và tín ngưỡng Quan Âm rất phổ biến ở các nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tôn tượng Bồ tát Quan Thế Âm được thờ tại chùa viện nước ta hiện nay rất đa dạng, dựa vào một trong 33 ứng hóa thân của Bồ tát.

Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, tượng thờ Quan Âm Nam Hải xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVI. “Trong một văn bia đời nhà Mạc năm 1578, học giả nổi tiếng đương thời là Nguyễn Bỉnh Khiêm cho biết tượng Diệu Thiện được tôn thờ tại chùa Cao Dương. Văn bia còn ghi rõ Diệu Thiện là một biểu tượng rất đặc thù của giáo lý từ bi trong đạo Phật. Quan Thế Âm nghìn tay nghìn mắt trước hết có liên hệ mật thiết với sự thực tập trì chú Đại bi, dần dần đã trở nên một biểu tượng rất lớn trong các chùa viện Phật giáo” (Thích Hạnh Tuấn, Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt).

Như vậy, các hình thái Quan Âm Nam Hải, Quan Âm đồng tử, Quan Âm tống tử, Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính đều bắt nguồn từ lòng từ bi, hiện thân cứu độ của Bồ tát Quan Thế Âm trong kinh Pháp Hoa.
Những truyện tích và tín ngưỡng Quan Âm rất phổ biến ở các nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tôn tượng Bồ tát Quan Thế Âm được thờ tại chùa viện nước ta hiện nay rất đa dạng, dựa vào một trong 33 ứng hóa thân của Bồ tát.