NHÂN QUẢ CHỨNG ĐẠO KHÁC NHAU
(Tác giả Hương Trần – đăng 9/9/2015)
______________________________
Ngoại Đạo cũng biết Nhân-Quả Nghiệp-Báo, nhưng không thâm sâu bằng đức Phật tuyên giảng.
Tuy nhiên, những người trẻ bây giờ không hề sợ Nhân-Quả Nghiệp-Báo khi họ không tiếc lời
1) Khinh Sư, diệt Tổ, chữi A-Di-Đà Tam Thánh
2) Phạm Tứ Trọng Giới trong Chùa/Viện
3) PHỈ BÁNG KINH ĐIỂN ĐẠI-THỪA! Khi mà bản thân không đủ trình độ học Kinh, chỉ học lóm nghe lén những lời bàn vu vơ của “Thầy”, rồi thêm thắt vào cho ra vẽ ta đây … NGU MUỘI và ĐIÊN RỒ!
Y như đức Phật đã huyền ký cách đây 2555 năm trước, “Kinh nầy là Ma thuyết”, “Kinh kia ngụy tạo”, v.v… (xem Kinh Đại Bát Niết Bàn và Đại Tập Địa Tạng Thập Luân)
Các Kinh nói về Nhân-Quả Nghiệp-Báo không phải là của Nhân Thừa như nhiều người lầm tưởng.
Khi đức Phật thuyết xong thì có nhiều người chứng đắc, không như các bộ A-Hàm hay Nikayas chỉ có một, hoặc một ít người chứng A-la-hán quả.
DẪN CHỨNG KINH
________________
1) Kinh Thiện Ác Nhân Quả (Thích Trung Quán)
(…) Phật bảo A-Nan tôi rằng : “Kinh này tên là Thiện-Ác Nhân-Quả, cũng gọi là kinh Bồ-Tát Phát-Nguyện Tu Hành, Thọ Trì Như Thế”.
Khi Phật nói kinh xong, trong chúng có tám vạn người, trời phát tâm A-nậu đa-la tam-miệu-tam bồ-đề và có trăm ngàn người con gái chuyển nữ thành nam. Một ngàn hai trăm ác nhân bỏ ý ác biết đời trước của mình. Vô lượng trời người được vô sanh nhẫn, thường được hưởng khoái lạc. Vô lượng thính giả sanh trong cõi Tịnh-Độ cũng được làm bạn với chư Phật Bồ-Tát. Hết thảy đại chúng về nhà làm phước, hoan hỷ phụng hành.
2) Phật nói Kinh Phân Biệt Thiện Ác Báo Ứng (Thích Chánh Lạc)
3) Phật nói Kinh Phân Biệt (Thích Thiện Trì)
4) Kinh Tội Phúc Báo Ứng (Thích Tâm Châu)
(…) Đức Phật nói kinh này rồi, năm trăm vị Tỳ-Khưu, lậu-nghiệp (phiền-não) sạch hết, tâm ý mở tỏ; bảy trăm vị Tỳ-Khưu-Ni, được đạo Tu-Đà-Hàm; tám trăm vị A-La-Hán chứng được đạo Bồ-Tát; chư Thiên, Long-thần, cùng một vạn hai nghìn người Thanh-tín-sĩ (thiện-nam), sáu nghìn người Thanh tín-nữ (thiện-nữ) tụ-tập dưới gốc cây khi ấy, đều được bước vào dấu-tích của Đạo và các vị Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni, Ưu-bà-Tắc, Ưu-bà-Di đều chứng được đạo-quả A-Na-Hàm.
5) Kinh Đại Bát Niết Bàn, viết
(…) Thăm hỏi xong, Tu Bạt Đà La nói: “Thưa Cù Đàm ! Nay tôi muốn hỏi xin ngài đáp cho.”
Phật liền hứa khả.
Tu Bạt Đà La nói : Thưa Cù Đàm ! Có các nhà Sa Môn, Bà La Môn nói rằng tất cả chúng sanh thọ báo khổ vui đều theo nơi nghiệp đã tạo ra ngày trước. Do đây nếu có người trì giới tinh tấn, thân tâm chịu khổ thời phá hoại được nghiệp đời trước. Nghiệp cũ đã hết thời quả khổ cũng dứt hết, khổ đã dứt thời chứng được Niết Bàn. Nghĩa trên đây là thế nào ?
_ Nầy Thiện Nam Tử ! Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn nói như vậy, ta sẽ vì xót thương mà thường đến chỗ người ấy để hỏi rằng : Quả thiệt ngài có nói như vậy chăng ? Nếu họ đáp là có và họ bảo rằng vì họ thấy cbúng sanh làm điều ác mà giàu sang tự tại, lại thấy người làm lành mà nghèo hèn mất tự do, lại thấy có người ra công ra sức nhiều mà không có của, thấy kẻ ở không tự nhiên có của, có người từ tâm chẳng sát sanh mà chết yểu, có kẻ ưa sát sanh lại sống lâu, có người tinh tấn trì giới phạm hạnh thanh tịnh hoặc được giải thoát hoặc chẳng được, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh thọ báo khổ vui đều do nghiệp nhơn ngày trước.
Nầy Tu Bạt Đà La ! Tasẽ hỏi họ các ngài có thiệt thấy nghiệp quá khứ chăng ? nếu có, nghiệp ấy nhiều hay ít ? Khổ hạnh hiện tại phá được nhiều ít ? Các ngài biết được nghiệp nầy đã hết hay chẳng hết chăng? Nghiệp nầy đã hết là hết tất cả chăng ? _ Nếu họ đáp là họ thiệt chẳng biết, thời ta sẽ vì họ mà dẫn ví dụ : Như có người thân bị tên độc, gia quyến rước y sĩ đến để nhổ mũi tên độc, lấy độc xong người đó được lành mạnh. Sau đó mười năm, người nầy còn nhớ rõ rằng : Y sĩ đó nhổ tên độc cho tôi rồi dùng thuốc thoa đắp khiến tôi được lành mạnh an vui.
Các ngài đã chẳng biết nghiệp nhơn quá khứ làm sao biết được khổ hạnh hiện tại quyết định phá được nghiệp quá khứ ?
Nếu họ nói rằng : Nay Cù Đàm cũng có nghiệp quá khứ, cớ sao lại riêng trách nghiệp quá khứ của chúng tôi ? Trong kinh của Cù Đàm cũng nói rằng : Nếu thấy người giàu sang tự tại, thời nên biết người nầy đời trước ưa bố thí. Như vậy chẳng phải gọi là nghiệp quá khứ ư ?
Ta bảo họ rằng : Nầy các ngài ! Biết như vậy gọi là tỉ tri, chẳng gọi là chơn tri. Trong Phật pháp hoặc có do nhơn mà biết quả, hoặc có do quả mà biết nhơn. Trong Phật pháp có nghiệp quá khứ có nghiệp hiện tại. Các ngài thời chẳng như vậy, chỉ có nghiệp quá khứ mà không biết nghiệp hiện tại.
Phật pháp của ta do nơi phương tiện mà dứt nghiệp, giáo pháp của các ngài thời chẳng từ nơi phương tiện mà dứt nghiệp.
Giáo pháp của các ngài cho rằng nghiệp đã hết thời khổ hết, Phật pháp của ta thời phiền não đã hết nghiệp và khổ cũng hết. Do đây nên ta trách nghiệp quá khứ của các ngài.
Nếu họ nói rằng : Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi thiệt chẳng biết, đó là lời của thầy chúng tôi, không phải lỗi của chúng tôi.
Ta sẽ bảo họ rằng thầy của các ngài là ai ? Nếu họ đáp là Phú Lan Na. Thời ta lại bảo họ rằng : Trước kia sao các ngài chẳng thưa hỏi cho rõ ràng coi thầy của các ngài có thiệt biết nghiệp quá khứ không ? Nếu Thầy của các ngài bảo là chẳng biết, tại sao các ngài lại nhận lấy lời ấy. Nếu thầy của các ngài bảo là biết thời nên hỏi rằng : Hạ khổ làm nhơn duyên có thọ trung và thượng khổ chăng ? Trung khổ làm nhơn duyên có thọ hạ và thượng khổ chăng ? Thượng khổ làm nhơn duyên có thọ hạ và trung khổ chăng ? Nếu đáp là không thời nên lại hỏi : Sao nhà thầy nói báo khổ vui chỉ do nghiệp quá khứ mà chẳng phải nghiệp hiện tại ?
Lại nên hỏi : Khổ hiện tại, quá khứ có chăng ? Nếu quá khứ có khổ thời nghiệp quá khứ đều đã dứt hết, nếu đã đều dứt hết sao lại còn thọ lấy thân ngày nay ? Nếu quá khứ không khổ chỉ có nơi hiện tại, tại sao lại nói chúng sanh khổ vui đều do nghiệp quá khứ ?
Nầy các ngài ! Nếu cho rằng khổ hạnh hiện tại có thể phá hoại nghiệp quá khứ, lại lấy gì để phá khổ hạnh hiện tại ? Nếu như chẳng phá thời khổ là thường, nếu khổ là thường sao lại nói rằng được giải thoát khổ ? Nếu lại có hạnh nhiệp phá hoại khổ hạnh, thời quá khứ đã hết tại sao có khổ ?
Nầy các ngài ! Khổ hạnh như vậy có thể làm cho nghiệp vui thọ lấy quả khổ chăng ? Có thể làm cho nghiệp khổ thọ lấy quả vui chăng ? Có thể làm cho nghiệp không khổ không vui chẳng thọ quả chăng ? Có thể làm cho báo hiện tại thành báo đời kế chăng ? Có thể làm cho báo đời kế thành báo hiện tại chăng ? Có thể làm cho hai báo nầy thành không quả báo chăng ? Có thể làm cho định báo thành không quả báo chăng ? Có thể làm cho không quả báo thành định báo chăng ?
Nếu họ trả lời rằng không thể được, ta sẽ bảo rằng : Nầy các ngài ! Nếu như không thể được, duyên cớ gì các ngài lại thọ khổ hạnh nầy ?
Các ngài nên biết rằng quyết định có nghiệp quá khứ và nhơn duyên hiện tại. Do đây nên tôi nói nhơn nơi phiền não mà sanh ra nghiệp, nhơn nơi nghiệp mà thọ quả báo.
Các ngài nên biết rằng tất cả chúng sanh có nghiệp quá khứ và có nhơn hiện tại. Dầu chúng sanh có nghiệp sống lâu quá khứ, nhưng phải nhờ nhơn duyên ăn uống hiện tại. Nếu nói chúng sanh thọ khổ thọ vui quyết định chỉ do nơi nghiệp quá khứ thời không phải. Vì như có người trừ được kẻ thù cho nhà vua, do đây mà được vua ban cho nhiều của báu, do có nhiều tiền của mà hiện tại được sung sương. Người nầy hiện tại làm nhơn sung sướng nên thọ báo sung sướng hiện tại. Lại như có người giết chết Vương Tử, do đây mà phải bị tru lục. Người nầy hiện tại tạo nhơn khổ nên phải thọ báo khổ hiện tại.
Nầy các ngài ! Tất cả chúng sanh hiện tại nhơn nơi tứ đại, thời tiết, đất đai, nhơn dân mà thọ khổ thọ vui. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bất tất đều nhơn nơi nghiệp đời trước mà thọ khổ, thọ vui.
Nầy các ngài ! Nếu do nhơn duyên dứt nghiệp mà được giải thoát, thời tất cả thánh nhơn chẳng được giải thoát. Vì bổn nghiệp quá khứ của tất cả chúng sanh là vô thỉ vô chung. Do đây nên ta nói lúc tu thánh đạo, thánh đạo nầy có thể ngăn nghiệp vô thỉ vô chung.
Nầy các ngài ! Nếu thọ khổ hạnh bèn đắc đạo đó, thời tất cả loài súc sanh lẽ ra đều đắc đạo. Do đây nên phải trước điều phục tâm mình mà chẳng điều phục thân. Vì thế nên trong kinh ta nói chặt đốn rừng nầy chớ chặt đốn cây, vì do nơi rừng sanh kinh sợ chẳng phải do nơi cây. Muốn điều phục thân phải trước điều phục tâm. Tâm dụ như rừng, thân dụ nơi cây.
Tu Bạt Đà La thưa : Bạch Thế Tôn ! Tôi đã trước điều phục tâm rồi.
Phật nói : Nầy Thiện Nam Tử !Nay ông làm thế nào có thể trước điều phục tâm ông ?
_ Bạch Thế Tôn ! Tôi trước suy nghĩ rằng : Dục ái là vô thường, vô lạc, vô tịnh, quán sát sắc là thường, lạc, ngã, tịnh. Suy nghĩ như vậy rồi kiết sử cõi dục dứt mà được sắc xứ, nên gọi là trước điều phục tâm.
Kế đó tôi quán sát sắc là vô thường : Như mụn nhọt ghẻ, như thuốc độc như mũi tên, thấy vô sắc là thường tịch tịnh trong sạch. Quán sát như vậy rồi kiết sử cõi sắc dứt mà được vô sắc xứ. Do đây nên gọi là trước điều phục tâm.
Kế đó tôi lại quán sát tưởng là vô thường như nhọt như ghẻ như độc như tên. Quan sát như vậy rồi được phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi phi tưởng xứ nầy là nhứt thiết trí vắng lặng thanh tịnh thường hằng bất biến không sa đọa. Do đây nên tôi có thể điều phục lấy tâm mình.
Phật nói : Nầy Thiện Nam Tử ! Như thế thời ông đâu có điều phục được tâm ! Phi tưởng phi phi tưởng xứ định của ông được vẫn còn gọi là tưởng, Niết Bàn là vô tưởng, sao ông nói rằng chứng được Niết Bàn ?
Nầy Thiện Nam Tử ! Trước ông đã có thể nhàm trách thô tưởng, nay sao ông lại tham trước nơi tế tưởng. Chẳng biết nhàm trách phi tưởng phi phi tưởng xứ định, định nầy vẫn gọi là tưởng như nhọt ghẻ như độc như tên.
Nầy Thiện Nam tử ! Thầy của ông là Uất Đầu Lam Phất thông minh lanh lợi còn không thể dứt được phi tưởng phi phi tưởng xứ nầy mà phải thọ lấy thân ác đạo, huống là những kẻ khác.
_ Bạch Thế Tôn ! Thế nào có thể dứt được tất cả các cõi ?
_ Nầy Thiện Nam Tử ! Người quán thiệt tướng có thể dứt tất cả các cõi.
Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là thiệt tướng ?
_ Nầy Thiện Nam Tử ! Tướng vô tướng gọi là thiệt tướng.
_ Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là tướng vô tướng ?
_ Nầy Thiện Nam Tử ! Tất cả pháp không tự tướng, không tha tướng và không tự tha tướng, không tướng vô nhơn, không tướng tác, không tướng thọ gỉa, không tướng pháp, tướng phi pháp, không tướng nam nữ, không tướng sĩ phu, không tướng vi trần, không tướng thời tiết, không tướng làm ra mình, không tướng làm ra người, không tướng làm ra mình ra người, không tướng có tướng không, không tướng sanh, tướng sanh giả, không tướng nhơn, tướng nhơn nhơn, không tướng quả, tướng quả quả, không tướng ngày đêm, không tướng sáng tối, không tướng kiến tướng, kiến giả, không tướng văn tướng văn giả, không tướng giác tri, tướng giác tri giả, không tướng Bồ Đề, không tướng Đắc Bồ Đề giả không tướng nghiệp, tướng nghiệp chủ, không tướng phiền não, tướng phiền não chủ.
Nầy Thiện Nam Tử ! Những tướng như vậy tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là tướng chơn thiệt. Tất cả pháp đều là hư giả, tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là thiệt. Đây gọi là thiệt tướng, là pháp giới, là tất cánh trí, là đệ nhứt nghĩa đế, là đệ nhứt nghĩa không.
Nầy Thiện Nam Tử ! Nơi thiệt tướng nầy, người hạ trí quán đó thời được Thanh Văn Bồ Đề, người trung trí quán đó thời được Duyên Giác Bồ Đề, người thượng trí quán đó thời được vô thượng Bồ Đề.
Lúc Phật nói pháp nầy,
1) có mười ngàn Bồ Tát chứng được nhứt sanh thật tướng,
2) có mười lăm ngàn Bồ Tát chứng được nhị sanh pháp giới,
3) có hai mươi lăm ngàn Bồ Tát được tất cánh trí,
4) có ba mươi lăm ngàn Bồ Tát ngộ đệ nhứt nghĩa đế. Đệ nhứt nghĩa đế nầy cũng gọi là đệ nhứt nghĩa Không, cũng gọi là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
5) Lại có bốn mươi lăm ngàn Bồ Tát được Hư Không Tam Muội, Hư Không Tam Muội nầy cũng gọi là Quảng Đại Tam Muội, cũng gọi là Trí Ấn Tam Muội.
6) Năm mươi lăm ngàn Bồ Tát được Bất Thối Nhẫn, Bất Thối Nhẫn nầy cũng gọi là Như Pháp Nhẫn, cũng gọi là Như Pháp Giới.
7) Có sáu mươi lăm ngàn Bồ Tát được Đà La Ni, Đà La Ni nầy cũng gọi là Đại Niệm Tâm, cũng gọi là Vô Ngại Trí.
8) Có bảy mươi lăm ngàn Bồ Tát được Sư Tử Hống Tam Muội, Tam Muội nầy cũng gọi là Kim Cang Tam Muội, cũng gọi là Ngũ Trí Ấn Tam Muội.
9) Có tám mươi lăm ngàn Bồ Tát được Bình Đẳng Tam Muội, Tam Muội nầy cũng gọi là Đại Từ Đại Bi.
10) Có vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề,
11) vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm Duyên Giác,
12) vô lượng hằng hà sa chúng sanh phát tâm Thanh Văn.
13) Có hai muôn ức nhơn nữ và thiên nữ hiện đời chuyển thân nữ được thân nam.
Lúc đó Tu Bạt Đà La nghe đức Phật nói pháp thậm thâm vi diệu, được pháp nhãn thanh tịnh bỏ tà kiến xin xuất gia.
Phật nói : “ Lành thay ! Lành thay ! Thiện Lai Tỳ Kheo !”
Tu Bạt Đà La vui mừng hớn hở, râu tóc tự rụng thành tướng Sa Môn, dứt hết phiền não đặng quả A La Hán.
(…) Đương lúc thiêu, thi hài của Tu Bạt Đà La ở trong lửa phóng ánh sáng lớn, hiện đủ mười tám sự biến hóa: Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, hông mặt ra lửa, hông trái ra nước, hiện thân lớn khắp trong hư không rồi lại hiện nhỏ v.v… [ĐÂY MỚI ĐÍCH THỰC LÀ CHỨNG QUẢ A-LA-HÁN]
Lúc đó trong đại chúng có vô lượng ngoại đạo tà kiến được chánh kiến phát tâm Bồ Đề.
Sau khi hiện thần thông, thi hài của Tu Bạt Đà La trở vào trong lửa.
Trà Tỳ xong , đại chúng thâu lấy xá lợi, dựng tháp cúng dường.
— # —
HÌNH 1: Vòng Luân Hồi – Địa Ngục của Đạo Phật (Narakas-Buddhism)
HÌNH 2: Địa Ngục của Bà-La-Môn Giáo (Hinduism)
HÌNH 3: Địa Ngục của Kỳ-Na Giáo (neraka-agama-Jain)
HÌNH 4: Phỉ báng Tổ
HÌNH 5: Phỉ báng Kinh Đại-Thừa
HÌNH 6: Phỉ báng cõi Cực-Lạc
(Click vào link FB để xem hình)
https://www.facebook.com/110397320314103/posts/238150547538779