Tứ tướng là gì?
Một hôm có một người huynh đệ hỏi :
Tứ tướng là gì ? Và ý nghĩa của chúng ra sao ?
Tứ tướng là bốn tướng mà một người tu tập chân chánh, một người phát tâm hành Bồ tát đạo không nên mắc kẹt vào.
Tứ tướng gồm có :
Tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh và tướng thọ giả.
Vậy nghĩa lý của từng tướng ra sao?
Theo Đại Thừa Kim Cang Kinh thì tứ tướng được định nghĩa như sau :
- Người phàm phu nhận sắc thân tứ đại này cho là ta, rồi đâm ra tham sống sợ chết.
Đây gọi là có Ngã tướng. - Tâm còn phân biệt đẹp xấu, tốt kém dở, yêu ghét chẳng đồng, không giữ được tâm bình đẳng.
Đây gọi là có Nhân tướng. - Không cầu giải thoát, tâm cứ chạy theo những ham muốn của phàm phu.
Đây gọi là có Chúng sanh tướng. - Tâm thức chưa trừ diệt, nghiệp chướng thường phát động, chẳng ngộ được pháp vô sanh, chân không, thực tướng. Thường bị tâm cảnh, ý thức dẫn dắt, đây gọi là có Thọ giả tướng.
Ai lìa được tâm dính mắc tứ tướng thì được gọi là Bồ Tát.
Còn ngược lại, những ai tâm còn vướng kẹt tứ tướng thì được gọi là phàm phu.
Nam Mô A Di Đà Phật.
– Cư Sĩ Nhuận Hòa

FB: Tu học mỗi ngày
LUẬN VỀ BỐN TƯỚNG
Phật Thích Ca đem tất cả hiện tượng vũ trụ nhân sinh do nhất niệm vô minh cảm biết được (tôi gọi nó là vũ trụ tương đối) đều gọi là Tướng. Tướng tức là tương đối, là biến hóa, là hữu lậu(1), là hữu hạn, là chẳng thật , do đó khiến chúng sanh mê vọng. Cả vũ trụ nhân sanh cho đến các phương pháp nhận thức luận đều là tương đối đều nên phủ định.
Trái lại, Phật Thích Ca đặt tên bản thể tuyệt đối cuối cùng gọi là Tánh. Tánh tức là Phật, cũng gọi là Tự Tánh, Chân Như, những danh từ này so với những danh từ trong triết học Tây phương như Lý tánh, Tánh chất, Tánh tình… ý nghĩa chẳng đồng.
Tánh của bản thể tuyệt đối này tức là tồn tại Chân thật, là Bất biến, là Vô lậu, là Vô hạn, là Chân thật, là Bổn lai như thế nên cũng gọi là Như Lai, là khẳng định tuyệt đối, tôi gọi nó là vũ trụ tuyệt đối.
- (1) Hữu lậu : Còn tập khí phiền não gọi là hữu lậu.
Muốn đạt đến vũ trụ tuyệt đối trước tiên phải phủ định vũ trụ tương đối, muốn phủ định vũ trụ tương đối trước tiên phải tìm chủng tử tương đối của vô thỉ tức là cội nguồn của tương đối, đem chủng tử cuối cùng này phủ định rồi thì chẳng có gì để phủ định nữa liền tiến vào tuyệt đối.
Trong quá trình phát triển Đại thừa Phật pháp ở Ấn Độ có một phái chủ trương phát huy từ bản thể gọi là Tánh Tông, còn một phái khác chủ trương từ hiện tượng dẫn dắt vào bản thể gọi là Tướng Tông.
Kỳ thực, Phật pháp cuối cùng đạt đến vũ trụ tuyệt đối rồi thì bản thể và hiện tượng hợp một, tánh tướng bất nhị cho nên cái Tánh của bản thể tuyệt đối này Phật Thích Ca gọi nó là Thực Tướng, là chỉ rõ khi tiến vào tuyệt đối thì tướng cũng biến thành chân thực tuyệt đối vậy. Nhưng khi chưa nhập tuyệt đối, tướng tức là tương đối chẳng thật, muốn tiến vào bản thể tuyệt đối cần phải phủ định Tướng đạt đến “Không, Vô tướng, Vô tác” mới cho là được giải thoát bước đầu tiên.
Phật Thích Ca đem tất cả Tướng chia thành bốn loại tức là: Ngã Tướng, Nhơn Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng, gọi chung là Tứ tướng. Bốn tướng này đại diện cho tất cả hiện tượng của nhân sinh vũ trụ tương đối, có thể dùng để giải thích nội tâm của con người đối với vũ trụ vạn vật sở sanh đủ thứ sai lầm.
Ví như bốn tướng trong kinh Viên Giác(1) là chuyên dùng để chỉ rõ người tu hành nhận lầm bốn thứ cảnh giới nội tâm, bốn tướng trong kinh Kim Cang thì cũng cùng mục đích độ chúng sanh mà chỉ rõ ràng, chúng sanh vì chấp bốn tướng mà sanh khởi sai lầm; bốn tướng trong kinh Lăng Già thì dùng để phê bình cái chấp trước do ngoại đạo sở kiến lập.
Bởi vì tất cả tư tưởng và hành vi của chúng sanh đều chẳng thể vượt qua phạm vi bốn tướng này, do đó muốn chúng sanh giác ngộ sự sai lầm của họ tốt nhất là dùng bốn tướng này để thỉết minh.
Giải thích: (1) Bốn tướng trong kinh Viên Giác, Kim Cương và Lăng Già : Nói chung tả sự nhận lầm bốn thứ cảnh giới nội tâm. Bốn tướng có hai thứ :
1. Bốn tướng mê thức của phàm phu :
- – Chấp nhận cái thân ngũ uẩn này là ta, gọi là Ngã tướng.
- – Bỏ Ngã tướng chấp vào toàn nhân loại gọi là Nhân tướng.
- – Bỏ nhân loại chấp vào toàn chúng sanh gọi là Chúng sanh tướng.
- – Chấp có thời gian chân thật gọi là Thọ giả tướng.
2. Bốn tướng mê trí của bậc Thánh :
- – Bậc Thánh tâm biết có sở chứng, dù chứng đến mức nào đều thuộc về Ngã tướng.
- – Nay ngộ thêm một bậc, biết chẳng phải ta chứng, siêu việt tất cả chứng, nhưng còn cái tâm năng ngộ gọi là Nhân tướng.
- – Nay tiến thêm một bậc nữa, liễu tri năng chứng, năng ngộ là Ngã tướng, nhân tướng, chỗ nãa tướng Nhân tướng thể đến chỉ còn tâm liễu tri, gọi làChúng sanh tướng. Rồi tiến thêm một bậc nữa, chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ một giác thể thanh tịnh, gọi là Cứu kính giác, tất cả tịch diệt, cũng gọi là Niết Bàn.
- – Nếu còn trụ nơi Niết Bàn thì mạng căn chưa dứt, gọi là Thọ giả tướng.
Cái phương pháp của Phật Thích Ca này rất cao minh và có hệ thống ấy là vì Ngài đã đích thân tiến vào tuyệt đối, đã thấu rõ tất cả nội tâm và ngoại vật của nhân sanh vũ trụ, biết tất cả chúng sanh sở dĩ lầm vào lối tẻ, trầm luân biển khổ đều do chấp tướng cho nên mới đặt cái phương pháp này để phá vỡ nó.
Con người từ khi biết dùng bộ não và cảm giác để quan sát tất cả đã trải qua một quá trình lâu dài, ban sơ hướng bên ngoài quan sát tức là quan sát sự biến đổi của con người và cảnh giới thiên nhiên v.v… Kế đó, trở lại quan sát hoạt động tư tưởng, cảm giác thay đổi không chừng của bản thân bộ não, tức là quan sát cái công cụ mà bản thân dùng để quán sát đó. Công cụ này gọi là Tâm.
Khi chưa kiến tánh, tác dụng của bộ não là giả, thế giới vạn vật do bộ não quan sát được cũng là giả : Giả + Giả = Giả. Nếu theo đó tu hành thì kết quả vẫn là giả nên lao nhọc mà chẳng có công hiệu.
Khi đã kiến tánh thì bộ não là chân, thế giới vạn vật đều là chân : Chân + Chân = Chân. Một chân thì tất cả chân nên chẳng cần tu gọi là Vô tu, Vô chứng(1) ấy là chuyển thức thành trí, thế giới tương đối biến thành thế giới tuyệt đối.
- (1) Vô tu vô chứng : Thể dụng của tự tánh cùng khắp không gian và thời gian, thần thông trí huệ vốn sẵn đầy đủ bằng như chư Phật. Ví như vàng thật ẩn trong quặng, quặng được bỏ tạp chất thì tự hiện vàng thật, cũng vậy, tâm được bỏ tập khí phiền não thì tự hiện thể dụng của tự tánh, chẳng do tu mới thành chẳng do chứng mới có nên gọi vô tu vô chứng.
Chúng ta muốn có sự đánh giá chính xác đối với Phật pháp thì chẳng nên xem theo chi tiết thế hệ mà phải thấu đạt trung tâm. Thế hệ của Phật mặc dù chia thành nhiều môn nhiều loại rất phức tạp, nhưng trung tâm tư tưởng của toàn thể hệ chính là Phật Tánh (tức là Tuyệt đối luận), còn những cái khác đều từ đó suy diễn mà ra như Tứ Thánh Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Sáu Ba La Mật, và Tam Giới Thân v.v… đều xuất phát từ trung tâm lý luận này vậy.
Học thỉết của Plato sở dĩ thành cội nguồn của Nhị nguyên luận là tại ông đem cảm giác với lý tánh phân chia cho là đúng, như vậy không những hoàn toàn khác biệt mà lại đối nghịch với nhau, do đó làm cho hai lý không cách nào dung thông được. Cái Nhị nguyên luận của ông ắt phải hiển hiện nơi đối lập của quan niệm và vật chất, tái hiện nơi đối lập của cảm giác và tư tưởng, lại hiện nơi đối lập của nhục thể với linh hồn nữa.
Ông đem chân lý với thực tại để trên phương diện lý tánh mà chẳng để trên phương diện cảm giác, lý ấy dù đúng nhưng cảm giác với lý tánh mặc dù phân chia thành khác biệt lại cũng cần phải nhất trí, nghĩa là hai cần phải khác suối mà đồng nguồn mới được.
Diệu lý của Phật thì chẳng có khuyết điểm kể trên, nó là rất viên mãn, rất nhất nguyên. Nó ban sơ phủ định cảm giác, cho cảm giác là hư vọng nên phủ định nó, nhưng cái cội nguồn hư vọng này chẳng phải lỗi của bản thân cảm giác mà do bị vô minh che khuất. Khi màn đen vô minh mở ra thì hư vọng tiêu diệt, lúc ấy cảm giác tức đồng với lý tánh nghĩa là với Phật tánh chẳng khác. Cho nên cảm giác với Phật tánh ban sơ mặc dù phân chia cuối cùng vẫn đồng một thể.
Cái cửa ải khó khăn của nhà triết học Hy Lạp và Tây phương ở nơi sau khi siêu việt cảnh giới nhập vào cảnh giới tư tưởng thuần túy rồi lại đọa trở lại trong gông cùm của cảnh giới cảm giác nữa.
Phật thì siêu việt hai cảnh giới này và đạt đến chỗ cảnh giới mà triết gia Tây phương chưa thể đến tức là cảnh giới Phật tánh vậy.
Cảnh giới này chẳng thể dùng tư tưởng suy lường, chẳng thể dùng ngôn ngữ văn tự diễn tả, cần phải thực chứng rồi mới biết được, sau khi chứng ngộ tất cả cảm giác tư tưởng đều không lìa Phật tánh, nên nói : “Duy có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết được”.
Về cảnh giới biểu thị trong Kinh và Ngữ Lục Tổ Sư hoặc nói hoặc nín, kẻ chứng thì thấu hiểu rõ ràng, kẻ chưa chứng thì suy nghĩ mãi cũng không hiểu, cũng như phương pháp “niêm hoa thị chúng” của Phật và “hét, gậy, chửi mắng” của Tổ Sư đều vậy.
Có vô thỉ vô minh rồi mới có nhất niệm vô minh, cho nên vô thỉ vô minh với nhất niệm vô minh là tương đối, có niệm thứ nhất thì có niệm thứ nhì, có niệm thứ ba v.v… cho đến cái niệm vô cùng vô tận, nghĩa là tư tưởng tương đối sanh ra vô số tương đối. Cho nên tương đối là chẳng thể cùng tận, không có chỗ dứt, chẳng thể truy cứu như cái vòng tròn chẳng có đầu mối nên gọi là luân hồi.
Con người hễ sanh ra tức là tương đối, có da trắng, da đen, da vàng, da đỏ v.v… Do đó sanh khởi nhiều mâu thuẫn và phiền não, nghĩa là con người sanh ra thì phải chịu đựng cái vận mạng bi thảm vậy.
Tảo tam tâm, phi tứ tướng ( 掃三心,飛四相 )
- 1. Tâm quá khứ không được nghĩ, tai là tâm quá khứ, Phật Nhiên Đăng, hội Liên Trì, Phật quá khứ quản thiên hạ, thế giới hồng phấn.
- 2. Tâm hiện tại không được tồn, mắt là tâm hiện tại, Phật Thích Ca, hội Linh Sơn, Phật hiện tại quản thiên hạ, thế giới sa bà.
- 3. Tâm vị lai không được nghĩ, mũi là tâm vị lai, Phật Di Lặc, hội Long Hoa, Phật vị lai quản thiên hạ, thế giới thanh tịnh.
Người tu đạo nên biết tảo tam tâm, phi tứ tướng mà tiến đạo. Người trên thế gian kẻ tu đạo cầu chơn thì nhiều, mà người đắc đạo thành chơn thì ít là do duyên cớ gì đây? là do người tu đạo toàn chẳng biết cái pháp tảo tam tâm, phi tứ tướng, khóa tâm vượn (tâm hay leo trèo nhảy nhót như con vượn, con khỉ chẳng chút nào yên), đóng ý mã ( ý như con ngựa phóng chẳng chịu ngừng), do vậy mà ít người thành Tiên thành Phật. Học giả nếu có thể điều tâm chẳng loạn, ý chẳng tán, lục tặc (6 tên trộm) chẳng xâm nhập được, lục trần chẳng nhiễm, tứ tướng hoàn toàn chẳng có, lục thần trong sáng rõ ràng, như thế thì làm sao lại chẳng thành đạo !
Cái gọi là tam tâm : tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, đấy gọi là tam tâm. Tâm là tổng chỉ huy của việc ứng sự, do vậy
- việc của quá khứ không được truy đuổi, đã qua rồi thì thôi, cho dù vọng tưởng cũng chẳng trở lại, trở lại thì tổn tinh thần,
- việc của hiện tại chẳng thể tồn, qua rồi thì thôi, có việc thì ứng, chẳng việc thì tĩnh;
- việc của vị lai (tương lai) không được cầu, việc đến thì ứng, vọng tưởng cũng chẳng được, như thế thì tam tâm đã diệt.
Cái gọi là tứ tướng chẳng phải là tứ trần của nhãn nhĩ tị thiệt, mà là
- cái mà Phật đã nói :
- vô ngã tướng,
- vô nhân tướng,
- vô chúng sanh tướng,
- vô thọ giả tướng;
- cái mà Nho Thánh gọi là
- phi lễ vật thị ( không hợp với lễ thì không xem ),
- phi lễ vật thính ( không hợp với lễ thì không nghe ),
- phi lễ vật ngôn ( không hợp với lễ thì không nói ),
- phi lễ vật động ( không hợp với lễ thì không làm ),
- cái mà Đạo tổ gọi là
- nhìn mà chẳng nhìn,
- nghe mà chẳng nghe (chẳng quan tâm, chẳng chú ý),
- ngửi chẳng biết mùi hương của nó,
- ăn chẳng biết mùi vị của nó,
Đấy là tâm pháp tiến tu nên xả bỏ của tam giáo. Nay dựa theo thứ tự mà giải thích tứ tướng.
- Người đời xem và cho rằng cơ thể sinh học của mình, tứ đại giả hợp, cái sắc thân do đất, nước, lửa, gió hợp thành là cái chơn ngã ( cái tôi thật sự ), thấy việc nghĩa chẳng dũng cảm mà làm, tham sống sợ chết, chỉ lo cho cái tiểu ngã ( cái tôi nhỏ ), gọi là có ngã tướng.
- Tâm tồn ác niệm, dựa theo dục vọng của tư tâm ( cái tâm riêng tư vì bản thân mình ), phân biệt bạn và tôi, làm việc chẳng công bằng, ý loạn động, gọi là có nhân tướng.
- Vọng niệm chẳng dứt tuyệt, tâm trần lưu chuyển, chẳng cầu giải thoát lục đạo luân hồi, gọi là có chúng sanh tướng.
- Thức thần dụng sự, vọng tưởng chẳng ngừng, mong hưởng trăm tuổi, con cháu phồn thịnh, gieo trồng ác nghiệp, chẳng ngộ phật tánh cầu giải chân lý siêu thoát, tùy tâm nhiễm cảnh, ý thức chẳng giác, trầm luân biển khổ, gọi là có thọ giả tướng.
Tứ tướng ở trên đều do tâm ý mà sanh nhiễm. Nam nữ tu học nếu có thể đem bỏ hết tam tâm tứ tướng, thuận tay mà được thành quả đại đạo.
Tứ vật của Nho Thánh, phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động, tức nhãn, nhĩ, khẩu, tâm thanh tịnh.
Nhìn mà chẳng nhìn, nghe mà chẳng nghe, ngửi mà chẳng biết mùi của nó, ăn mà chẳng biết vị của nó, đấy là tâm ý chẳng loạn, cảnh giới tĩnh nhập hư không, con khỉ tốt khéo léo thông minh lanh lợi, cưỡi trên con ngựa nghe lệnh, dục tâm đã ngưng, còn ý thức toàn diệt, bên trong thủ huyền quan, 6 cửa đóng chặt, đã quên đi hình bóng của tứ tướng, đã gần đạo rồi.
Mong rằng người đời trước hết nên phát niệm từ bi, giữ gìn nhân luân đạo đức, nam thì tuân thủ bát đức, nữ hành trì bát chánh ( quan hệ nhân luân giữa phu thê, phụ tử, huynh đệ, quân thần ), tích nhiều việc thiện, in sách khuyên đời, cứu tế những người gặp hoạn nạn nguy cấp, xả dược thí trà, kính yêu trân trọng ngũ cốc, chữ giấy, xây cấu đắp đường, có tiền thì thiện dụng vào những việc tốt, chớ có bị tiền bạc sai khiến mà làm những việc không hợp với đạo đức, mà phạm phải lỗi lầm sai trái.
Nên biết rằng đời người tại thế, người trong thuận cảnh thì chẳng tu, chỉ mong hưởng cái phước hư phù không thiết với thực tế; người trong nghịch cảnh thì khó hành, do có đủ thứ ma khảo làm cản trở, dẫn đến việc mong mà chẳng được như ý. Người đời nếu có thể biết thỏa mãn hài lòng với những gì mình đang có, dục tâm tự diệt thì sẽ chẳng có cái niệm tư tà ( tà niệm riêng tư ); cần phải bồi dưỡng công đức thật nhiều mới có thể tiêu giải những oan nghiệp của kiếp trước hoặc kiếp này; nếu thiện công tích được nhiều thì người tu luyện đại đạo sau đó nhất định dễ tịnh, do công đức có thể giải trừ đi ma chướng, nếu tạp ma đã diệt tận thì tâm tự nhiên tĩnh.
Khuyên người tu đạo rằng, nếu gặp phải ma cảnh, cần phải ôm giữ lấy chánh niệm, an ủi tự tâm, chẳng để cho nó vọng động, học giả có thể làm được như thế thì cần chi phải niệm chú thỉnh phật, bởi vì học đạo quan trọng nhất ở một chữ tâm chánh, nên biết rằng tâm là tổng căn nguyên ( nguồn gốc ) tạo thiên đường, tạo địa ngục, tạo ra Thánh Hiền Tiên Phật, cho nên tâm là chủ của một thân, tức thuộc vị trí quân vương, người làm quân vương nếu có thể tâm chánh thì văn võ khắp triều chẳng có ai không kính phục, và bốn biển bình tịnh, vạn dân an lạc, ngựa thả núi nam, đao súng vào kho.
Tâm nếu như động một cái, như quân vương phản vô đạo, làm việc chẳng có sự chủ quyết, từ đấy mà nhãn nhĩ tị thiệt thân ý hỗn loạn mà cướp đoạt cảnh tình để thỏa mãn dục tâm sảng khoái; nên biết rằng nếu như tâm vọng động, chẳng biết dùng chánh niệm để vãn hồi ( cứu vãn ), cho dù có tiên phật thần thông quảng đại cũng khó mà cứu vãn, chế ngừng dục tâm.
Cho nên sự lợi hại của vọng tâm, thần quỷ mạnh mẽ dữ dội đều kinh sợ, vì sao vậy ? do những người thích tham hoa háo sắc, hoặc thích đánh bạc, thích uống rượu nếu hẹn bạn bè đến chỗ nào, dù trong âm thầm có ma quỷ cản đường thì tâm của loại người này thắng trội hơn sức mạnh của ma quỷ, trái lại ma quỷ đều phải tránh né loại người thích cờ bạc ham sắc dục này, có thể thấy rằng dục tâm của con người lợi hại vô cùng, có thể thiên biến vạn hóa, như ngài Tề Thiên Đại Thánh, dũng cảm lộn một cái 3000 dặm, thật là chẳng cách nào khống chế.
a. Mắt xem là nhân tướng :
Nếu có thể trong bốn bể, xem chúng sanh như trẻ sơ sinh, chẳng nói những lời lường gạt, chẳng dối trá gian xảo thì là vô nhân tướng ( chẳng có nhân tướng ).
Thái độ đối đãi với người khác dựa vào tiền tài, thế lực ít nhiều của đối phương mà quyết định quan hệ thân sơ, không ngừng kết giao với những người có địa vị xã hội cao, thấy người ta ngu nhược thì không ngừng chán ghét, ghen ghét đố kị với những gì mà người ta có, keo kiệt bủn xỉn với những gì mà người ta cầu xin mình, đều là nhân tướng.
Tuy hành nhân nghĩa lễ trí tín mà ý cao tự phụ, chẳng hành phổ kính ( kính trọng tất cả mọi người, mọi chúng sanh ), nhân nghĩa lễ trí tín chẳng hợp kính người, là nhân tướng.
b. Tai là ngã tướng :
Nếu có thể biết rằng thân là ảo, ngộ được cái vô thường này, chỉ biết có người, chẳng biết có mình, chẳng vì tánh mạng thì là vô ngã tướng ( chẳng có cái tướng của tôi ).
Phàm là tự yêu bản thân mình, tranh danh đoạt lợi, mưu tính cho thân mình, lại mưu tính cho con cháu, đều là ngã tướng.
Kẻ mê ỷ cậy vào việc có tài sản châu báu, học vấn, tộc tánh mà ngạo mạn với tất cả mọi người thì là ngã tướng.
c. Mũi ngửi là thọ giả tướng :
Nếu có thể ngộ rõ, trường thọ đoản mệnh, khốn cùng hiển đạt chẳng tùy theo hoàn cảnh mà biến dời, phương tiện giúp người vốn là chẳng có tướng thọ giả.
Những kẻ quỳ lạy khẩn cầu mà cầu phước báo hiện tại, đốt bùa luyện đơn, mong trường sanh bất lão là thọ giả tướng.
Đối cảnh mà lấy xả phân biệt là thọ giả tướng.
d. Miệng nếm là chúng sanh tướng :
Nếu có thể chẳng tồn cái tâm tự tư tự lợi, lấy cái tâm vì bá tánh làm tâm mình, kẻ ác ta vẫn đối đãi thiện, kẻ bất thiện ta vẫn đối đãi thiện, là chẳng có chúng sanh tướng.
Sắc thọ tưởng hành thức hy vọng tùy ý cầu đắc, cầu lấy chẳng có nguyên tắc, ngôn chánh hành tà, khẩu thiện tâm ác, là chúng sanh tướng.
Việc tốt thì quy về mình, việc ác thì đổ cho người, là chúng sanh tướng.
Nguồn: https://blog.xuite.net/liangfulai29062009/twblog/165844770
Ý nghĩa của từ Tứ Tướng theo Tự điển Phật học như sau:
Tứ Tướng có nghĩa là:
(四相): các pháp sanh diệt, biến chuyển theo 4 tướng là Sanh (s: jāti, 生, còn gọi là Sanh Tướng [生相], tức là pháp hữu vi từ vị trí tương lai sanh đến vị trí hiện tại), Trụ (s: sthiti, 住, còn gọi là Trụ Tướng [住相], tức là pháp hữu vi an trụ ở vị trí hiện tại), Dị (s: anyathātva, 異, còn gọi là Dị Tướng [異相], tức là pháp hữu vi biến dị, suy tổn ở vị trí hiện tại), Diệt (s: anityatā, 滅, còn gọi là Diệt Tướng [滅相], tức là pháp hữu vi ở vị trí hiện tại diệt và chuyển sang vị trí quá khứ); còn gọi là Tứ Hữu Vi (四有爲), Tứ Hữu Vi Tướng (四有爲相), Tứ Bản Tướng (四本相). Theo thuyết của Tiểu Thừa Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部), căn cứ vào Phát Trí Luận (發智論) quyển 2, Đại Tỳ Bà Sa Luận (大毘婆沙論) quyển 38, 39, Câu Xá Luận (具舍論) quyển 5, v.v., tất cả các pháp hữu vi đều chịu sự chi phối của vô thường; tuy do năng lực của nhân duyên, từ vị trí tương lai, sanh đến vị trí hiện tại, nhưng chỉ trong thoáng chốc thì tiêu diệt mà trở thành vị trí của quá khứ. Pháp hữu vi sanh diệt biến chuyển này lưu chuyển ở trong ba đời tương lai, hiện tại và quá khứ. Hữu Bộ thì chủ trương sát na sanh diệt, cho nên Bốn Tướng này đều có mặt chỉ trong một sát na. Theo thuyết của Pháp Tướng Tông (法相宗) thuộc Đại Thừa, căn cứ vào Du Già Sư Địa Luận (瑜伽師地論) quyển 46, 51, 88, Thành Duy Thức Luận (成唯識論) quyển 2, v.v., tông phái này chủ trương “Tứ Tướng giả lập, quá vị vô thể (四相假立、過未無体, bốn tướng giả lập ra; quá khứ, vị lai không thực thể).” Nếu nói về sát na, các pháp hữu vi nương vào sức mạnh nhân duyên, do vì vốn là không nên nay có mặt; vì vậy mới gọi là Sanh. Tạm dừng ở vị trí Sanh, tức gọi là Trụ. Biến dị trước sau vị trí Trụ thì gọi là Dị. Vì tạm có rồi lại không, nên gọi khi diệt là Diệt vậy. Trong quá trình đó, ba tướng Sanh, Trụ, Dị là “có”, cùng thuộc hiện tại; tướng Diệt là “không”, thuộc về quá khứ. Bên cạnh đó, Tứ Tướng còn là 4 loại tướng do cá thể chúng sanh vọng chấp mà sanh ra, được thuyết trong Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (金剛般若波羅蜜經) do Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch, gồm: Ngã Tướng (我相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn [s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊] lầm xem có thật ta và cái của ta), Nhân Tướng (人相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn lầm xem cái ta sanh trong cõi người là người, vốn khác với các cõi khác), Chúng Sanh Tướng (眾生相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn lầm xem cái ta nương vào Năm Uẩn, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hòa hợp mà sanh ra) và Thọ Giả Tướng (壽者相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn lầm xem cái ta thọ nhận một chu kỳ thọ mạng, ngắn dài không thống nhất, khác nhau tùy theo mỗi người).