Tết Trùng Cửu nói về cơ hội cho một người
Hôm nay là ngày 9 tháng 9 âm lịch, còn gọi là Tết Trùng Cửu (重九) hoặc Tết Trùng Dương (重阳), tiếng Anh là Double Ninth Festival. Đây được xem là ngày của “Lễ tìm cơ hội cho người trẻ” vì nó liên quan đến một điển tích rất nổi tiếng, trí thức các nước phương Đông ai cũng rành. Đó là câu chuyện Thời lai phong tống Đằng Vương Các.
- Người tài thì trong thiên hạ nhiều vô kể, nhưng người có được thành tựu, thực hiện được ước mơ thì lại ít ỏi vô cùng. May mắn, phúc phần nhất của 1 đời người chính là cơ hội được trao. Cơ hội không tự đến, ai muốn có thì phải chủ động tạo ra.
Nếu chưa bao giờ hiến máu, hãy hiến (3 ngày sau khi hiến đừng vận động mạnh như đá bóng hay tập gym, sau đó sẽ bình thường trở lại). Hiến máu rất tốt cho cơ thể mình và tạo mình có 1 profile tốt với vũ trụ. Máu bị siêu vi B không hiến được thì mình đi hiến tạng. Người hào sảng phóng khoáng, vô vi với cơ thể sinh học của mình, không tiếc nuối gì thì mọi thứ với họ sẽ rất nhẹ nhàng.
Ngoài hiến máu, hiến tạng, hiến công hiến sức, cái khó nhất của con người là hiến tiền. “Về cơ bản, tuyệt đại đa số con người đều tham, đều muốn tư hữu”– Lão Tử đã nói với học trò như thế, để biết cách điều chỉnh các mối quan hệ nhân sinh.
Do vậy, 1 người đưa tiền cho người khác, không mong hồi đáp, thì đã chiến thắng được lòng tham. Và khi cho đi, họ đã chủ động tạo ra may mắn. May mắn hay cơ hội không có rành rành ra trước mắt, người hẹp hòi ngu muội sẽ mắng ngay, vì chưa thấy gì đã thấy mất tiền trước, ngu và điên mới chịu mất như thế.
Hệ “thấy rồi mới tin” sẽ không có nhiều cơ hội, vì còn chứa trong lòng sự nghi ngờ, cốt yếu là do sợ mất, nên cơ hội tới là chần chừ, sợ hãi, nghĩ đi nghĩ lại và cuối cùng nói thôi.
Còn người thuộc hệ “tin rồi sẽ thấy” thì dại khờ lúc đầu, nhưng hậu vận lại hanh thông. Người ta nói, “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, nhưng người đời dạy khôn nhau chứ không mấy ai dạy khù khờ cả.
Ai hoàn toàn không có cơ hội nào? Người ích kỷ.
Người ích kỷ sẽ luôn đau khổ, vì cứ sợ mất, nhất là tiền bạc, nên người ta không tin tưởng để trao cơ hội. Chưa kể, cơ hội của người khác đều bị họ phá hỏng vì chút tham vặt vãnh, góc nhìn nhỏ hẹp, cái tôi to đùng. Người ích kỷ lại hay đố kỵ, hay ghen ghét, hay tức tối vì thấy người ta hơn.
Người tầm cỡ họ luôn nói với nhau là “Đừng bao giờ đầu tư vào người nghĩ nhiều về chi phí, về tiền bạc”. Vì hễ một người không chịu mất tiền, thì mãi mãi chẳng bao giờ có thể làm ra tiền. Câu cá cũng phải tốn mồi câu. Mồi lớn thì mới câu cá lớn. Không mồi mà đòi có cá thì chỉ là ước mơ.
Nghĩ về được/mất nhiều thì dẫn đến không tin người. Nghĩ về được/mất nhiều thì sẽ không có thời gian nghĩ ra ý tưởng và triển khai để có thành tựu. Và thấy ai chơi không đẹp, ai không dám rút tiền ra thì người ta không muốn kết giao, không muốn đầu tư, không muốn dây vào. Người xài tiền chắc quá thì làm ăn rất khó. Và người thân bạn bè cũng khó mà nhờ cậy khi cần. Họ không muốn cho đi.
Thời lai phong tống Đằng Vương Các
- Ngày xưa, có một anh thanh niên mới 15 tuổi tên là Vương Bột, soái ca ngời ngời, thông tuệ, ăn nói xuất sắc, hiểu được những điều phức tạp và biến thành đơn giản, nếu có cơ hội, sẽ cống hiến tốt cho đời. Thế nhưng xuất thân từ dân thường, anh đợi mãi đợi mãi mà vẫn chưa có dịp thi thố tài năng.
Thế rồi 1 bữa nọ, chàng nghe tin là ở Đằng Vương Các có 1 buổi thi làm thơ, từ chỗ chàng đến chỗ đó tới mấy trăm dặm, trong khi chỉ có 2-3 ngày nữa tới bữa thi. Chàng nghĩ thôi, lại vuột mất 1 cơ hội, bỗng dưng có 1 ông già xuất hiện, nói cứ chuẩn bị sửa soạn hành lý và lên thuyền đi, nếu đã tha thiết muốn, muốn đến tột cùng thì “nhân thiên đều giúp”.
Chàng thoạt không tin nhưng nghĩ lại, nếu vẫn có chút không tin như thế thì thành người tầm thường mất. Cứ tin và làm theo đi, bất quá thì tới trễ hoặc quay về thôi. Thế là chàng lên thuyền, ai dè lúc đó có ngọn gió Trùng Cửu nổi lên (ngày 9/9 âm lịch), gió mạnh thổi thuyền đi với tốc độ tàu cao tốc bây giờ. Thế là chàng đến được Đằng Vương Các để thi, vang danh thiên hạ. Vương Bột sau này chết ở Nghệ An (lúc đó nước ta còn Bắc thuộc, anh đi châu Hoan thăm cha và bị đắm thuyền do bão số 7, nha khí tượng dự báo sai).
Người sau dùng câu “Thời lai phong tống Đằng Vương Các” để nói về cơ hội cho người trẻ, “thời lai” là đến thời, “phong tống” là gió hộ tống đi.
Tony Buổi Sáng
Bài viết của Dượng Tony từ 2015
Ở Sài Gòn có mấy quán cà phê tên là Cát Đằng, nhiều con dượng hỏi nghĩa là gì vậy. Có khi các bạn viết nhầm từ Các Đằng hay không, vì tiếng miền Nam phát âm Cát và Các là giống nhau. Nếu đúng là Cát Đằng, thì đó là một loại dây leo, còn Các Đằng tức Đằng Vương Các, gắn liền với các giai thoại của thi ca Trung Quốc thời Đường và nhà thơ Vương Bột.
Thời Đường, tức khoảng thế kỷ thứ 7 đến thứ 10, là thời kỳ cực thịnh của phong kiến Trung Hoa. Một xã hội thịnh vượng, người ta ăn no mặc ấm sung túc mới nghĩ chuyện thơ văn múa hát. Thơ trong thời kỳ này thành một trường phái riêng, gọi là Đường thi (thi là thơ, tiếng Hán Việt). Chúng ta có thể biết nhiều nhà thơ lớn của Trung Quốc và của cả thế giới trong giai đoạn này như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ…
Thời Sơ Đường tức thời kỳ đầu, có tứ kiệt tức bốn nhà thơ nổi danh thiên hạ, trong đó có Vương Bột, gọi là thần thi, vì viết thơ như thần, hay không bút mực nào tả xiết. Người Trung Quốc vô cùng yêu mến Vương Bột, vì nét nho nhã thanh tao của con người ông. Tuy rất tài hoa nhưng Vương Bột lại mệnh yểu, chết lúc 26 tuổi ở Việt Nam.
Chuyện kể rằng, khi Vương Bột sang thăm cha ở châu Hoan, tức Nghệ An ngày nay, bị bão số 7 ập đến (do cơ quan khí tượng thủy văn dự báo sai) nên ông bị đắm tàu chết, người dân địa phương đã vớt xác ông lên lập miếu thờ (thời Đường, một số tỉnh ven biển Bắc Bộ nước ta thuộc quận Giao Chỉ, Bắc thuộc, mãi đến khi nhà Đường kết thúc năm 907, 31 năm sau đó, tức năm 938, Ngô Quyền mới xác lập lại chủ quyền của nước ta).
Thế mới biết, người tử tế đàng hoàng thì ở đâu cũng được yêu mến. Nếu chúng ta tìm được miếu thờ của họ Vương và trùng tu, chắc chắn sẽ là một điểm tham quan vô cùng ưa thích của người Trung Quốc nho nhã, vốn đang tôn thờ thơ ông. Giới trẻ Trung Quốc bây giờ nghiện thơ Vương Bột vì câu từ quá nhẹ nhàng, thanh thoát, khoáng đạt rộng lớn. Không thần tiên như Lý Bạch, không đời như Đỗ Phủ, thơ Vương Bột mang một nét riêng, thi trung hữu họa, tức trong thơ có tranh vẽ, đẹp đến nao lòng người.
Trở lại Đằng Vương Các, đây là một trong tứ lầu của thi ca, 3 lầu kia là Hoàng Hạc Lâu, Nhạc Dương Lâu và Bồng Lai Các. Lâu là lầu, còn các là gác, giống như Khuê Văn Các ở Văn Miếu. Lúc đó, viên đô sát tên là Diêm Bá Dư có mở tiệc chiêu đãi tao nhân mặc khách ở Đằng Vương Các nhân dịp tết Trùng Cửu, tức ngày 9 tháng 9 âm lịch, có mời mọi thi nhân có mặt. Nghe tin, Vương Bột, lúc đó chỉ là một cậu thanh niên 15-16 tuổi, muốn tham gia nhưng không thể nào được vì đường sá quá xa xôi, đi thuyền phải mất mấy ngày mới tới nơi. Đêm đó, Vương Bột tâm sự với một ông già rằng mình muốn góp mặt để đời biết danh mình, nhưng tỏ ý tiếc rẻ vì không thể tham gia. Ông già mỉm cười bảo chàng trai trẻ cứ chuẩn bị hành trang, nếu có thời thì khắc sẽ làm được mọi thứ. Quả thật, khi vừa lên tàu giong buồm, ngọn gió Trùng Cửu nổi lên, đưa thuyền họ Vương đến bến Nam Xương, nơi có Đằng Vương Các uy nghi toạ lạc, chỉ sau một đêm. Sau này, Tô Đông Pha viết “thời lai, phong tống Đằng Vương Các” tức thời đến, gió sẽ hộ tống mình đi đến bến Đằng Vương, là câu cửa miệng của nhiều người.
Hôm đó, ở Đằng Vương Các, đô sát họ Diêm vừa nhìn thấy thiếu niên mặt trắng họ Vương thì bĩu môi cả thước, tỏ ý khinh bỉ lắm. Con rể của họ Diêm là một người vô cùng nổi tiếng, mới ra đề “Đằng Vương Các Tự” rồi mời quan khách múa bút. Ai cũng biết ý của họ Diêm là khoe con rể hay chữ, nên không ai dám, trừ Vương Bột, do không biết nên mới sáng tác ngay. Mấy câu đầu, mọi người đều cười chế nhạo vì không có gì hay. Nhưng đến 2 câu cuối, ai nấy nghe xong đều thất sắc.
“Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”
Lạc hà là ráng chiều buông xuống, cô lộ tề phi là một con cò cô đơn đang bay.
Thu thủy là sông nước mùa thu, trường thiên là trời rộng mênh mông, chỉ có một màu. ( “dữ, cộng” nghĩa là cùng với, chữ and trong tiếng Anh).
Chỉ với 2 câu này, thiên nhiên tươi đẹp của cả vùng Nam Xương được nổi bật lên như một bức tranh. Diêm đô sát nhào tới lắc vai chàng thanh niên trẻ, hỏi đây là ai, là ai, người phàm hay thần thi vậy. Bỗng khắc, trên trời cao, một tiếng động khinh thiên giữa bầu trời quang mây tạnh. Quan khách ai nấy tái mặt, trừ một cô gái áo hồng đang đứng dưới cành liễu. Vương Bột nhìn thấy, (còn tiếp)