Lý vô vi
Muốn hòa vào Đạo, Lão Tử nói về Lý Vô Vi. Vô Vi nghĩa là không làm, tức là không can thiệp vào tự nhiên, để con người sống theo tự nhiên và cùng với tự nhiên tiến hóa.
Lý Vô Vi gồm: Vô cầu, Vô tranh, Vô đoạt, Vô chấp.
- Vô cầu, giúp ta vô vọng, xa lìa vọng tưởng điên đảo.
- Vô tranh, giúp ta vô đại, xa lìa ý tưởng hơn thua, cao thấp.
- Vô đoạt, giúp ta vô thủ, xa lìa ý tưởng có, không, còn, mất.
- Vô chấp, giúp ta vô ngại, xa lìa ý tưởng trược thanh.
Vô Vi tức Đạo. Đạo thường vô vi nhi vô bất vi (không làm tức là Đạo. Đạo thường không làm, mà không gì không làm được).
Từ chỗ không làm mà làm được tất cả. Làm được tất cả mà như không làm gì cả.
Đó là bí quyết của Đạo.
Lý Vô Vi quá sức huyền diệu cao viễn, ít ai thấu triệt nổi, thành ra bị thất truyền hay bị hiểu sai lạc đi.
Thực hiện theo lý Đạo thì phải Luyện Kim Đan, để gom Tam Bảo: Tinh, Khí, Thần, về một, tức là Tinh Khí Thần hợp nhất. Ta phải thanh luyện tiếp để xả hết, hòa vào hư không, tức là trở về hiệp nhất với Đạo.
Luyện Kim Đan là luyện cho thành Thánh Thai (Anh nhi, Xá lợi), chớ không phải luyện thuốc Tiên, trường sanh bất tử. Luyện cho cái Tánh trở thành Kim cang bất hoại, gặp động không loạn, nhập trần không nhiễm, định mà không chết cứng, đi đứng nằm ngồi mà như không đi đứng nằm ngồi, thuyết giảng đạo pháp mà như không thuyết giảng, vv… như thế là nhập vào Lý Vô Vi vậy.
Lão Tử người nước Sở (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), họ Lý, tên Nhĩ, húy là Đam, là quan chấp sử vương kiêm trông coi thư khố nhà Chu. Do học cao, biết rộng lại phải chứng kiến những cảnh trái ngang trong giai đoạn suy tàn của Thiên tử nhà Chu nên Lão Đam lặng lẽ cáo quan ở ẩn. Khi qua cửa Tây thành Hàm Cốc gặp Doãn Hỷ, vị quan coi cổng này đã xin Lão Đam để lại đôi lời vàng ngọc, Lý tiên sinh không nỡ phụ lòng đã dừng chân viết hai thiên sách bàn về Đạo (37 chương) và Đức (44 chương) rồi lẳng lặng cưỡi trâu ra đi. Cuốn sách dài 81 chương gần 5.000 chữ được lịch sử gọi là “Đạo Đức Kinh” hoặc “Lão Tử ngũ Thiên văn”.
Người đời sau không biết Lão Tử đi đâu về đâu nhưng cuốn Đạo Đức Kinh của ông để lại đã chứng minh ông là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà Triết học thiên tài của thế giới cổ đại. Học thuyết vô vi là hạt nhân của hệ tư tưởng Lão Tử trong đó bao hàm hai quan điểm :
- – Thiên đạo vô vi quan (Đạo pháp tự nhiên) và
- – Nhân đạo vô vi quan (Đạo xử thế ở đời).
1. Quan điểm “Đạo pháp tự nhiên”
Đây là quan điểm tinh tuý nhất trong tư tưởng triết học của Lão Tử, là một vũ trụ quan khoa học, tiến bộ, kiệt xuất khác thườg. Nó khuyên con người phải tuân theo và nương theo những qui luật tự nhiên, không nên làm ngược lại theo ý chủ quan.
Trước Lão Tử , các nhà tư tưởng trong “Bách gia Chư tử” quan niệm: Đạo chỉ là nhân đạo, đạo lý làm người. Đến Lão Tử, Đạo được hiểu theo nghĩa rộng nhất của khái niệm Triết học, thông qua Đạo có thể hiểu được quá trình hình thành và phát triển của thế giới.
Trong khái niệm Đạo của Lão Tử bao gồm khái niệm vật chất cùng các thuộc tính của nó là vận động, không gian, thời gian, sự thống nhất của các mặt đối lập …
Lão Tử cho rằng Đạo là thiên đạo, là bản thể của vũ trụ, là nguồn gốc sinh ra trời đất, vạn vật, là đường lối muôn vật noi theo. Đạo tồn tại độc lập, bất biến, đạo là vật chất chứ không phải là tinh thần, là tổng thể những qui luật chi phối sự sinh thành, biến hoá của vũ trụ.
Đặc tính của Đạo là: Vô cùng, vô tận, không bao giờ hết, tồn tại khách quan, thuận với tự nhiên, không can thiệp, chế ngự tự nhiên, luôn luôn vận động, vĩnh cửu, lâu dài, phổ biến trong mọi vật, có khả năng chuyển hoá, quay trở lại trạng thái ban đầu và hết sức huyền diệu.
Theo Lão Đam: Đạo mà có thể diễn tả được bằng lời thì không phải là cái Đạo Vĩnh Cửu, bất biến. Tên mà có thể gọi ra được thì không phải là tên Vĩnh Cửu, thường hằng. Cái Đạo trường tồn bất biến ấy thật quả nó ở ngoài vòng ngôn ngữ, nhạt không có mùi, nhìn không thể thấy, nghe không thể rõ dùng không thể hết. Đạo là một cái gì lúc ẩn lúc hiện, dù mập mờ thấp thoáng mà ở trong vẫn có hình tượng, vẫn có vật chất, dù sâu thăm thẳm, tối như bưng mà ở trong vẫn có tinh tuý.
Nếu tìm hiểu học thuyết vô vi của Lão Tử một cách toàn diện chúng ta càng thấy ông là một người xuất chúng. Mặc cho Khổng Tử thừa nhận Trời là đấng tối cao, sinh ra muôn vật, Mạnh Tử cũng khẳng định điều đó, Mặc tử coi là tất nhiên, không phải bàn luận.
Ngược lại, Lão Tử phủ định vai trò tối cao của Trời, không thừa nhận trời sinh ra muôn loài. Ông nói: Có một vật trộn lộn mà thành sinh ra trước trời đất, ta không biết tên nó là gì, nên mới cho tên riêng là Đạo.
Như vậy, có thể hiểu là: Đạo là cái đầu tiên, cái có trước, trước cả trời – đất và muôn loài. Đạo là khởi nguồn của vũ trụ, không có đồng loại, không có gì sánh được. Đạo tồn tại độc lập tuyệt đối, không có gì chi phối được.
Nhiều năm trước đây, khi nguồn tư liệu còn hạn chế, người ta thường xếp tư tưởng triết học của ông vào trường phái duy tâm khách quan. Nhưng nếu xem xét kỹ cả hệ thống tư tưởng của Lão Tử , không thể không thừa nhận ông là nhà triết học duy vật, bởi vì trong học thuyết của ông chỉ rõ:
Đạo có trước Trời, Đất; trong Đạo có vật chất. Đạo chính là vật chất, là nguyên tố sinh ra vạn vật.
Đạo là sự vận động và chuyển hoá lẫn nhau của vật chất
Đạo là qui luật hình thành vạn vật.
Ở thời thượng cổ, khi chưa có thuyết tiến hoá và phép biện chứng duy vật, Lão Tử đã nêu ra lý thuyết: Đạo sinh ra Một, Một sinh ra Hai, Hai sinh ra Ba, Ba sinh ra vạn vật. Vạn vật đều cõng âm và ôm dương trong quá trình phát triển. Ông còn nhấn mạnh: Đạo vừa là không (Vô), vừa là có (Hữu). Không và có là hai trạng thái trong hai giai đoạn của Đạo. Khi Đạo ở trạng thái vô thanh vô sắc, vô hình vô tướng thì là không, khi Đạo sinh thành Trời đất vạn vật thì là có.
Lão Đam đã kết hợp khéo léo giữa Chu dịch và tư duy logic để chỉ ra qui luật tiến hoá của tự nhiên, đó là: Từ thấp, đến cao, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp, cái này là tiền đề phát triển của cái kia, âm – dương là hai mặt đối lập nhưng không thể tách rời trong lòng mỗi sự vật. Triết lý đó được khẳng định là đúng đắn ở thời cận đại.
2. Quan điểm Nhân đạo vô vi quan
Lão Tử là người sáng lập, người thầy, là bút danh tiêu biểu cho Đạo gia học phái ở Trung Hoa thời cổ- trung đại. Học thuyết của Ông được phát triển mạnh mẽ vào thời Chiến quốc (475-221 Tr.CN), đó là thời kỳ đại loạn trong lịch sử Trung Quốc. Nhân lúc Nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu nổi lên dùng mọi thủ đoạn, mánh khoé để tranh Bá đồ vương làm cho nhân dân điêu đứng, đau khổ vô cùng.
Lão Tử là một đại trí thức, một người ưu thời mẫn thế, lập nên học thuyết vô vi mong cứu vãn thời thế. Học thuyết vô vi của Lão Tử nhấn mạnh “Vô dục”, “Vô vi”, “bất tranh”. Ông cho rằng bản tính tham lam, hiếu thắng là nguồn gốc của mọi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Muốn cho xã hội thái bình, con người phải sống thanh cao, không tham lam, không màng danh lợi. Lão Tử quan niệm Đạo, Đức, Lễ, Nghĩa là bất đắc dĩ vì mất đạo mới bày ra đức, mất đức mới bày ra nhân, mất nhân mới bày đặt ra lễ nghĩa.
Đạo gia học phái lên tiếng phê phán gay gắt lễ nghĩa, luân thường của Nho gia bày đặt ra là giả tạo, là phản tự nhiên nhằm mục đích mưu cầu danh lợi làm cho xã hội đi chệch hướng. Lão Trang và học phái đạo gia là những con người có tư tưởng phóng khoáng, muốn được sống hoà mình vào thiên nhiên, coi trọng mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, đề cao cái tôi thanh cao cùng chất lãng tử của con người nghệ sỹ. Họ tỏ ra xem thường và khinh miệt mọi cường quyền, bạo lực, xem khinh sĩ phu của Nho gia học phái luôn luôn tự kiêu cho mình là thành đạt trong áo mão xênh xang; tuy ngực đeo bài ngà, tay ôm hốt ngọc tận tuỵ lăn lộn trong chốn quan trường, xu nịnh bọn vua quan cũng chỉ để kiếm chút danh, chút lợi.
Thuyết vô vi của Lão Đam là cứu cánh của những con người tha thiết yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, muốn sống một cuộc đời nhàn tản thanh cao như Tiên như Phật. Dẫu rằng còn nhiều hạn chế trong tư tưởng của mình, Lão Tử vẫn là triết gia kiệt xuất, là người thầy của Đạo gia, đứng đầu trong “Bách gia chư tử”. Với những cống hiến xuất sắc như: Sáng lập khái niệm Đạo, phân tích rõ bản nguyên thế giới, nêu lên thuyết vô thần, phép biện chứng duy vật sơ khai, tư tưởng của Ông có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong thời cổ – Trung đại Trung Quốc mà còn lan toả đến nhiều quốc gia châu á cho đến tận hôm nay.
Lời bàn :
Phải chăng học thuyết “Vô vi” của Lão Tử phản ánh tâm trạng bất đắc chí của người có tài mà đời không dùng? Không! Đó chính là tâm trạng của tầng lớp quí tộc chủ nô đang bị sa sút trước sự vươn lên nắm quyền thống trị xã hội của giai cấp địa chủ mới hình thành.
Dù cho tư tưởng Lão Tử còn nhiều hạn chế, nhưng Triết học xuất thế của ông cũng có ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội Trung Quốc bởi Triết lý nhân sinh của Lão Tử nhấn mạnh vào các yếu tố: Nhu – Thuận – Tĩnh – Thủ và Triết lý xử thế của ông là: Nhẫn – Thoái – Không tranh – Không đấu. Triết lý đó đã tạc vào lịch sử Trung Hoa hình ảnh ông già khắc khổ, ẩn dật nơi thâm sơn cùng cốc, vô vi trước mọi thăng trầm, thả hồn vào trời mây non nước. Đó là một phong cách Nhu – Thuận nhưng đầy cá tính, cao ngạo và ấn tượng trở thành khuôn mẫu cho muôn đời.
“Ẩn sĩ” đời nào cũng bị xem là “gàn dở” bởi vì họ tránh xa danh lợi, vinh hoa phú quí mà đó lại là mục đích phấn đấu của đám Nho sĩ và người đời.
Than ôi! Đời người ngắn ngủi lắm thay, chỉ như vó câu qua cửa mà sao phải đeo đuổi những thứ phù du như mây bay, gió thoảng làm chi ?
Đọc Lão Tử ta phải suy ngẫm, phải “đặt” Lão Tử cạnh Khổng Tử trong bối cảnh bon chen, đua lấn của thời Chiến Quốc mới thấy được sự vĩ đại và trí tuệ thâm sâu của tư tưởng Lão Trang. Khổng Tử và Lão Tử dường như là hai mặt đối lập, hai dòng tư tưởng đi song hành và bổ trợ cho nhau trong xã hội phong kiến Trung Hoa suốt 2500 năm qua và mãi mãi về sau.
NT
Học thuyết vô vi của Lão Tử
Trong triết học Lão Tử, các phạm trù Đạo, Đức, Vô Hữu là những phạm trù nền tảng. Chúng có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau đến mức không thể hiểu từng phạm trù một cách riêng rẽ. Bài viết nhằm làm rõ vị trí, vai trò của mối quan hệ Vô – Hữu trong triết học Lão Tử. Đây là mối quan hệ xuất phát có tính chất như là vấn đề cơ bản của triết học Lão Tử. Nó là cơ sở để hiểu những tư tưởng khác tưởng như là nghịch lý mà cũng rất có lý của ông. Đặc biệt, trên cơ sở đó, có thể hiểu tư tưởng “Vô vi nhi bất vô vi” rất độc đáo trong triết học Lão Tử. Theo Lão Tử, nếu sự thống nhất Vô – Hữu là bản chất của Đạo thì sự thống nhất Vô vi – Hữu vi là bản chất của một đường lối trị nước tối ưu.
Trong lịch sử triết học Trung Quốc, triết học của Lão Tử là một hệ thống rất đặc sắc và cho đến nay, còn để lại nhiều giá trị to lớn. Những tư tưởng về nguồn gốc và bản chất thế giới, về con người và đạo làm người đã được Lão Tử thể hiện một cách độc đáo qua các phạm trù cơ bản như Đạo, Đức, Vô vi,… Tuy nhiên, khởi nguyên Lão Tử không xây dựng triết học của mình thành một hệ thống. Vì thế, khi căn cứ vào Đạo đức kinh để khái quát thành hệ thống triết học, các nhà nghiên cứu đã có nhiều cách sắp xếp khác nhau những nội dung cơ bản của nó. Hơn nữa, do tính trừu tượng của các khái niệm căn bản trong Đạo đức kinh rất cao, nên tư tưởng Lão Tử thường được hiểu và đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Một trong những vấn đề đầu tiên được Lão Tử đề cập đến trong Đạo đức kinh là mối quan hệ Vô-Hữu trong Đạo. Đây là một vấn đề căn bản, mang tính xuất phát điểm của triết học Lão Tử. Điều này cũng đã được Dương Hưng Thuận, Nguyễn Tôn Nhan, Trần Chí Lương, v.v. bàn đến. Mặc dù vậy, vị trí, vai trò của mối quan hệ này đối với các nội dung khác trong triết học Lão Tử vẫn còn nhiều điểm cần làm rõ. Bài viết này muốn góp phần phân tích các quan hệ này nhằm hiểu rõ và thấu triệt hơn tư tưởng triết học Lão Tử, đặc biệt là học thuyết Vô vi độc nhất vô nhị của ông.
Triết học của Lão Tử vốn là một học thuyết về sự tương – phản, tương – thành giữa có và không, cao và thấp, hoạ và phúc… trong vũ trụ và trong cuộc sống con người; về các quy luật phổ biến chi phối toàn bộ vũ trụ như Luật quân bình và Luật phản phục. Trong đó, vấn đề quan hệ giữa có và không được thể hiện nổi bật nhất qua phạm trù “Vô vi”.
Trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Hữu vô tương sinh…”(1). Điều đó có nghĩa mối quan hệ giữa có và không chính là nguồn gốc sâu xa của vạn vật. Cụ thể hơn, ông nói:
“… Không tên là đầu của trời đất,
Có tên là mẹ của vạn vật …
Hai cái đó, đồng với nhau
Cùng một gốc, tên khác nhau”(2).
Tư tưởng này thể hiện rõ bản chất của Đạo tự nhiên, theo Lão tử, là sự thống nhất hữu cơ giữa có và không. “Có” – “không” là hai mặt đối lập phổ biến nhất và đó chính là biểu hiện của Đạo trong vũ trụ. Đó còn là nguồn gốc sinh ra vạn vật chứ không chỉ cái có mới liên quan đến sự sinh thành, như Lão Tử chỉ rõ: “Vạn vật trong thiên hạ từ có mà sinh ra; có lại từ không mà sinh ra”(3).
Như vậy, theo Lão Tử, cái có là nguồn gốc trực tiếp còn cái không là nguồn gốc sâu xa của vạn vật. Tư tưởng này của Lão Tử, trên thực tế, cũng có thể lý giải được. Bởi, như chúng ta đã biết, vạn vật đều có giống có nòi, con người thì có cha mẹ, tổ tiên của mình, mà tất cả thì đều không phải tự nhiên mà có. Khoa học đã chứng minh rằng, vũ trụ ban đầu chỉ là một khối khí mênh mông, lúc đó chưa có con người nên không thể có một khái niệm, một cái tên nào, mà tất cả là “vô danh”. Chỉ khi con người đã sáng tạo ra ngôn ngữ, khái niệm, thì mọi vật được phát hiện ra, mới hữu danh, rồi từ đó sinh sôi nảy nở ngày một nhiều và được gọi theo cái danh đã có (danh gốc). Đó là ý nghĩa câu: “Vạn vật trong thiên hạ từ có mà sinh ra…”. Vậy còn “… có lại từ không mà sinh ra” thì có thể hiểu như thế nào?
Khi chưa biết đến một sự vật, chưa đạt được một cái tên để gọi nó thì sự vật thực sự chưa có đối với con người (mặc dù vẫn tồn tại trong tự nhiên), tức nó là “không”. Nhưng không không phải là hoàn toàn không có gì, không phải là hư vô mà chỉ là không tên (vô danh). Trong Đạo đức kinh, sự thống nhất giữa có và không đã được Lão Tử minh họa bởi những dẫn chứng thực tế. Ông chỉ rõ: “Ba mươi tay hoa cùng quy vào vào một cái bầu, nhưng chính nhờ vào khoảng trống không trong cái bầu xe mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Vậy ta tưởng cái có (bầu xe, chén, bát, nhà) mới có lợi cho ta, mà thực ra cái không mới làm cho cái có hữu dụng”(4).
Ở đây, Lão Tử đã diễn tả sự diệu dụng của cái khoảng không trong đồ vật tuy trực quan mà rất tài tình; qua đó, giúp ta hiểu ý nghĩa của cái có trong mỗi đồ vật và thấy cả sự gắn bó giữa cái có và cái không như hai mặt đối lập của một sự vật. Cái có vừa là bản thân sự vật (bánh xe, chén, bát, nhà cửa) vừa là bộ phận hợp thành sự vật (trục xe, nan hoa, miệng bát, trôn bát, tường vách, nền nhà, khung cửa, mái nhà…). Song, nhờ những phần không trong các đồ vật mà đồ vật tồn tại, hữu dụng. Ngược lại, đồ vật hữu dụng mới làm cho những bộ phận của nó có ý nghĩa, có tên.
Như vậy, theo Lão Tử, cái không mới là quan trọng, vì suy đến cùng nó là cái làm nên sự vật và công dụng của sự vật. Ông Nguyễn Tôn Nhan cũng có nhận xét: “Hai yếu tố có và không đan xen vào nhau nhưng cuối cùng cái không vẫn là cần thiết hơn hết”(5). Nhưng điều này không có nghĩa là Lão Tử không thấy vai trò của cái có trong tồn tại như một số người đã đánh giá. Chẳng hạn, Vương An Thạch đời Tống đã phản đối Lão Tử: “Công dụng của cái bánh xe tuy ở chỗ trống giữa ba mươi sáu cái dẻ quạt châu lại nhưng ở ngoài đó phải có vành tròn thì mới có chỗ trống ấy. Công dụng của các đồ đạc tuy ở chỗ trống của những thứ đó, nhưng phải có cái vỏ xung quanh thì đồ đạc mới có chỗ trống. Công dụng của cái nhà tuy ở chỗ trống trong nhà nhưng phải có tường vách, nền mái thì cái nhà mới có chỗ trống. Như vậy, những công dụng của các vật kia phải ở cái “có”, ”không” ở cái không”(6). Ở đây, Vương An Thạch đã đề cao cái có, phủ nhận cái không, nhưng thực ra phải thấy rằng, công dụng của các vật kia đều ở cả cái có và cái không mới đúng bản ý của Lão Tử là “Hữu vô tương sinh” và “cùng một gốc”.
Về điểm này, Nghiêm Toản đã phân tích khác Vương An Thạch: “… Không có trống không, ba vật ấy (bầu xe, đồ dùng, nhà) không thể đem dùng; nhưng không có gỗ, đất thó, tường vách, ba thứ ấy cũng không thể tạo nên, mà rốt cuộc cái không không nhờ vào cái có thì cái dùng của nó cũng không thành được vậy. Vì thế mới nói có đấy, lấy làm cái lợi, không đấy, lấy làm cái “dùng”. Cái có cung cấp tiện lợi cho cái không … nhưng cái “dùng” lại không phải ở chỗ có mà chính thực ở chỗ “trống không”(7). Những phân tích trên cho thấy, Đạo cũng như vạn vật đều là sự thống nhất giữa cái có và cái không, tức là đều tồn tại dựa trên cả có và không. Chính sự thống nhất này là cơ sở, điều kiện tất yếu cho sự tồn tại, vận động của mọi sự vật, hiện tượng trong hiện thực. Điều này không mâu thuẫn gì với quan điểm triết học duy vật biện chứng. Trên thực tế, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đồng thời có hai trạng thái vận động và đứng im (không vận động), luôn là nó và cũng không là nó vì chúng có sự đứng im tương đối và luôn vận động trong không gian, thời gian cụ thể.
Quan niệm như vậy đối với tư duy thông thường là khó hiểu, song với tư duy biện chứng thì đó là sự thật hiển nhiên. Tư duy biện chứng không nhìn sự vật một cách bất biến, ở một chỗ, mà luôn xem xét chúng qua sự biến hoá, mâu thuẫn tự nhiên giữa có và không. Đặc biệt, Lão Tử còn thấy rõ cái đối lập – cái trạng thái hiện hữu tiềm tàng ngay trong cái hiện hữu. Nghĩa là, khi cái đối lập xuất hiện thì không phải nó đột nhiên là có, không phải khi xuất hiện rồi ta mới biết, mà nó vốn là cái không đã có mầm mống từ trong hiện hữu (cái có). Bởi vậy, đối với Lão Tử, hoạ không chỉ là hoạ mà trong hoạ đã có mầm phúc hoặc ngược lại, hoạ – phúc, chính – tà, thiện – ác đều có thể hàm chứa lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau. Ông viết: “Hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ nấp của hoạ… Hoạ – phúc không có gì nhất định. Chính có thể biến thành tà, thiện có thể trở thành ác”(8). Theo ông, đó là những lẽ tự nhiên của Đạo, cũng như “Cây lớn một ôm khởi sinh từ cái mầm nhỏ, đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu bằng một bước chân”(9).
Trong triết học Mác – Lênin cũng có nội dung thể hiện mối quan hệ giữa có và không trong vũ trụ. Đó là mối quan hệ giữa “khả năng” và “hiện thực”. Ở đây, khả năng là cái chưa có (cái không) nhưng không phải hoàn toàn không có mà chỉ là chưa hiện hữu rõ ràng. Hiện thực là cái có, cái tồn tại thực nhưng phải bắt nguồn từ khả năng, nảy sinh trên cơ sở cái không tiềm tàng từ trước. Nghĩa là, nếu không có khả năng thì cũng không thể có hiện thực được. Còn hiện thực nếu mất khả năng tồn tại thì cũng sẽ từ có trở thành không. Tác giả Trần Chí Lương đã chỉ ra tư tưởng về mối quan hệ có và không ở Lão Tử giống như quan hệ giữa khả năng và hiện thực. Ông viết: “Vô ( không ) là cơ hội, là khả năng tính. Hữu (có) là hiện thực tính, nắm chắc cơ hội, lợi dụng khả năng. Điều này khiến cho có được sản sinh ra từ không. Đồng thời nếu vứt bỏ các loại cơ hội, các loại khả năng tính thì có sẽ lão hoá, cứng nhắc hoá, không thích ứng với phát triển của thời đại, dần dần sẽ bị đào thải, đây gọi là “hữu thoái vi vô”(10).
Như vậy, sự chuyển biến từ khả năng thành hiện thực và ngược lại chính là sự chuyển biến giữa có và không. Tuy nhiên, Lão Tử không nói rõ được sự chuyển hoá đó mà chỉ thấy sự vận động một chiều từ vô danh đến hữu danh, đến vạn vật. Song, đúng là ông đã có công trong việc chỉ rõ sự thống nhất hai mặt có và không như một quy luật phổ biến của vũ trụ. Sự thống nhất đó thực sự là chỗ ảo diệu của vạn vật và theo ông, cũng là của Đạo, như Lão Tử viết:
“Không tên là đầu của trời đất
Có tên là mẹ của vạn vật
…
Hai cái đó đồng với nhau
Đồng nên gọi huyền
Huyền rồi lại huyền
Đó là cửa vào ra của mọi huyền diệu trong trời đất”(11).
Phân tích phạm trù Đạo như là sự thống nhất giữa hai mặt vô danh và hữu danh, giữa cái bất biến và khả biến, ông Nguyễn Tôn Nhan nhận xét: “Hai cái ấy, tức là vô danh và hữu danh hoặc nói gọn lại là vô và hữu. Đây chính là cặp phạm trù quyết định mọi quan điểm triết học xưa nay. Thực sự, hai mà chỉ là một vì nó “đồng” (cùng), quan điểm này là quan điểm chủ yếu trong tư tưởng triết học Lão Tử”(12). Quan điểm vô – hữu của Lão Tử cũng được tác giả Trần Chí Lương đánh giá cao. Ông cho rằng, Hêraclít cũng đã tiếp cận quan hệ giữa có và không như Lão Tử, nhưng “đã đem hứng thú để vào nguyên tử” tức là để vào chỗ có do đó sinh ra truyền thống triết học Tây phương không ngừng tìm hiểu và nắm vững cái có. Tư tưởng Lão Tử sâu sắc hơn, không những nhìn thấy có mà còn thấy có được sinh ra từ không… Do đó sinh ra một loại triết học phương Đông đi theo con đường khác hẳn với phương Tây, có cống hiến thật là to lớn đối với loài người”(13). Hoặc một số tác giả khác coi sự thống nhất đó chính là sự huyền diệu của Đạo mà con người cần nhận thức.
Tóm lại, để hiểu triết học Lão Tử, chúng ta không thể không nhận thấy mối quan hệ thống nhất giữa có và không. Việc nhận thức được mối quan hệ này là chìa khóa để tìm hiểu những tư tưởng khác của Lão Tử. Chính xuất phát từ đó mà chúng ta có thể giải thích được những tư tưởng đặc sắc tưởng như là nghịch lý mà lại rất có lý trong triết học của ông. Cái gì cũng có mà như không, không mà là có, không ở bên ngoài nhưng có ở bên trong. Triết lý “vô” – “hữu”, “có” – “không” biểu hiện trong hành động của con người là “Vô vi nhi vô bất vi”. Đó là điều cuối cùng Lão Tử muốn vạch ra trong toàn bộ tác phẩm của mình. Ở đây, Lão Tử không có ý bảo “vô vi” chỉ là “vô vi”, ông nói rõ “vô vi” mà vẫn “hữu vi” và là làm theo tự nhiên, vì chỉ có theo quy luật tự nhiên thì hoạt động mới có hiệu quả. Trong Đạo đức kinh, “Vô vi nhi vô bất vi” là tư tưởng khó hiểu nhất nhưng cũng sâu sắc nhất xuyên suốt nội dung tác phẩm. Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cũng đã nhận xét như vậy. Chẳng hạn, ông Nguyễn Tôn Nhan viết: “Vô vi không phải là “không làm” mà “không gì không làm”. Đó chính là chỗ uyên áo, sâu thẳm nhất của Lão học”(14); hay có người còn coi “Vô vi nhi vô bất vi” là tư tưởng cốt lõi, là mục đích của học thuyết Lão Tử”, cho rằng trong bộ Đạo đức kinh, Lão Tử nói đi nói lại vẫn không ngoài mục đích làm sáng tỏ nguyên lý duy nhất “Vô vi nhi vô bất vi”(15).
Từ trước tới nay, người ta thường cho rằng Lão Tử chỉ coi trọng “vô vi’ mà không cần “hữu vi”, thừa nhận “vô vi” mà phản đối “hữu vi”. Thực ra, điều này chưa hoàn toàn đúng. Lão Tử chỉ không tán thành đường lối “hữu vi” thuần tuý nên mới chỉ ra đường lối “vô vi”. Song, ông không phủ nhận hẳn ‘hữu vi’ mà chỉ nói: “Hữu sự thì “không đủ” để trị thiên hạ”. Trong chương 48 của Đạo đức kinh, khái niệm “vô vi”, “hữu vi” và vai trò của chúng như những phương thúc trị nước của nhà cầm quyền được thể hiện rất rõ. Lão Tử viết:
“Vô vi nhi vô bất vi
Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự
Cập kì hữu sự bất túc dĩ thủ thiên hạ”
(Không làm mà không gì không làm
Giữ thiên hạ nên vô vi
Còn hữu vi không đủ để giữ thiên hạ)”(16).
Ở đây, cần chú ý chữ “bất túc” (không đủ) mà Lão Tử đã dùng để nói lên tính không đầy đủ của phương pháp “hữu vi”. Nghĩa là, ông vẫn ngầm thừa nhận phương pháp đó. Nó cũng cần cho việc trị nước, nhưng nếu chỉ có “hữu vi” không thôi thì nhà cầm quyền sẽ không giữ được nước, được dân. “Hữu vi” chỉ là điều kiện cần, cho nên phải có “vô vi” nữa mới là điều kiện đủ cho việc giữ thiên hạ. Dường như ông đã khẳng định rằng “vô vi” và “hữu vi” cần được thống nhất trong một đường lối trị nước tối ưu. Đây chính là sự không thái quá về phương pháp nào mà phải “biết đủ, biết dừng” thì việc trị nước mới có hiệu quả. Điều này giải thích thái độ của Lão Tử khác hẳn với Hàn Phi khi Hàn Phi phủ nhận hoàn toàn đường lối nhân trị của Nho giáo để áp dụng pháp trị. Ông phê phán: “Người nhân và kẻ tàn bạo đều là hạng người mất nước”.
Tóm lại, nếu quan hệ “vô – hữu” là một nguyên lý phổ biến trong triết học Lão Tử thì mối quan hệ “vô vi – hữu vi” là sự cụ thể hoá nguyên lý đó trong lĩnh vực chính trị – xã hội, nghĩa là nó trở thành nguyên lý chung cho đạo trị nước và đạo làm người. Đó là cơ sở để hiểu các phương pháp khác trong triết học Lão Tử như bất tranh, khiêm nhu, vô tư, vô dục, dĩ đức báo oán… Phân tích rõ tính hai mặt của những phương pháp đó là cả một vấn đề lớn. Điều đó vượt quá khuôn khổ của bài viết này, xin được trình bày tiếp trong một dịp khác. Bài này xin được dừng lại ở phương hướng chung cho việc nhận thức cả triết học Lão Tử cũng như học thuyết Vô vi của ông. Đó là phải xuất phát từ sự thống nhất hữu cơ giữa có và không trong Đạo.
(*) Thạc sĩ triết học, giảng viên Trường Đại học Giao thông Hà Nội.
(1) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Thu Giang, Nguyễn Duy Cần). Nxb Văn học, Hà Nội, 2000, tr.37.
(2) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Thu Giang, Nguyễn Duy Cần). Sđd., tr.30.
(3) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Hiến Lê). Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 1994, tr.225.
(4) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Hiến Lê). Sđd., tr.179.
(5) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Tôn Nhan). Nxb Văn học, Hà Nội, 1999, tr.46.
(6) Trích theo: Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Hiến Lê). Sđd., tr.90.
(7) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nghiêm Toản). Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1962, tr.63 –64.
(8) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Hiến Lê). Sđd., tr.248.
(9) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Hiến Lê). Sđd., tr.256-257.
(10) Trần Chí Lương. Đối thoại với tiên triết về văn hoá phương Đông thế kỷ XXI. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 102.
(11) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Thu Giang, Nguyễn Duy Cần). Sđd., chương 1, tr.30.
(12) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Tôn Nhan). Sđd., tr.15.
(13) Trần Chí Lương. Sđd., tr.80-81.
(14) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Tôn Nhan). Sđd., tr.23.
(15) Xem: Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nghiêm Toản). Sđd., q.1, tr.260.
(16) Lão Tử. Đạo đức kinh (Dịch và chú giải: Nguyễn Tôn Nhan). Sđd., tr. 169-170.
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 3 (166), tháng 3 – 2005
Tìm kiếm có liên quan
- Thế nào sống vô vi
- Nghĩa của từ vô vi
- Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự
- Trình bày nội dung tư tưởng vô vi của Đạo gia
- Thuyết vô vi của Lão Tử thực chất là gì?