Ý nghĩa của Sinh Tử – Sống là gì? Chết là gì?
Đại văn hào Shakespeare đã từng nói:
To be or not to be – Tồn tại hay không tồn tại.
Vậy ta có thể nói rằng sống chính là sự tồn tại có ý nghĩa. Sự tồn tại mà không còn có ý nghĩa tức là không sống, có thể xem như là đã chết. Như thế, tất cả vạn vật trong vũ trụ này, đã có sự tồn tại tức là có sự sống, chỉ có điều hình thức sống của mỗi sự vật, sự việc thì khác nhau. Nên ý nghĩa của sự tồn tại, của sự sống vạn vật cũng khác nhau.
Đã có sống ắt có chết, có sinh ắt có diệt. Nên sự chết chính là sự tồn tại không có ý nghĩa hoặc là không tồn tại, điều này có nghĩa từ cái Hữu trở về với cái Vô, mà trở về cái Vô để rồi lại nảy sinh ra cái Hữu, đó là điều kỳ diệu của vũ trụ.
Như thế thì chết không phải là kết thúc mà chết chính là để bắt đầu một cuộc sống mới. Đó chính là vòng xoay của Luân Hồi quả báo hay còn gọi là Luật Nhân Quả.
* Ý nghĩa của cuộc sống
Đã sinh ra, tồn tại thì mỗi vật chất đều có một ý nghĩa sinh tồn riêng của nó. Ý nghĩa này sẽ thay đổi theo sự phát triển của từng phẩm vị linh hồn.
Xem bài : Bát Đẳng Chân Hồn – 8 cấp tiến hóa của linh hồn
* Ý nghĩa của sự chết
Chết không phải là kết thúc tất cả. Chết là để bắt đầu một cuộc sống mới.
Tại sao ta lại nói như vậy, khi không có gì chứng minh cụ thể về luật nhân quả, luân hồi?
Thật ra, điều này đã hiển nhiên ngay trước mắt chúng ta. Sự chết của một vật chính là để bắt đầu một cuộc sống mới của những vật khác có liên quan đến nó.
Ví dụ:
Trong thế giới tự nhiên, khi một con vật bị chết, xác của nó sẽ thối rữa, từ trong sự thối rữa ấy, hàng muôn vạn loài vi khuẩn được sinh ra, phân hủy cái xác ấy và biến các chất hữu cơ từ cái xác ấy thành nguồn phân bón cho đất.
Đất lại nuôi dưỡng cây cối, cây cối lại nuôi dưỡng loài ăn cỏ, loài ăn cỏ lại trở thành thức ăn của loài ăn thịt, khi loài ăn thịt chết lại biến thành chất dinh dưỡng cho đất.
Như thế, sự chết của một vật rõ ràng là sự khởi đầu của các sự sống khác có liên quan đến nó.
Còn loài người thì sao?
Ở đây ta xét khía cạnh hữu hình trước tiên.
Về phương diện hữu hình
Trong gia đình nọ, khi có một người chết, tất cả thành viên, những người thân trong gia đình đều rất đau buồn. Điều này có sự tác động, ảnh hưởng đến những sinh hoạt của gia đình ấy. Như thế, một cuộc sống mới đã bắt đầu đối với những người sống có mối quan hệ với người đã chết.
Có những cái chết làm cho những người xung quanh phải nuối tiếc, buồn bã. Nhưng cũng có những cái chết làm cho người xung quanh mừng rỡ vì sự ra đi của người ấy, không chút nuối tiếc.
Tất cả cũng do những hành động mà họ đã làm trong kiếp sinh của họ. Nếu làm cho mọi người xung quanh yêu mến, sự ra đi của họ sẽ làm cho mọi người phải thương tiếc. Nếu họ làm cho mọi người xung quanh ghét bỏ, gây nhiều tội lỗi trong cuộc sống đến nỗi sự tồn tại của họ là cái gai trong mắt những người xung quanh. Khi ấy, sự ra đi của họ làm mọi người thích thú, không có gì phải luyến tiếc.
Từ xưa đến nay, những vị anh hùng chiến đấu xả thân vì đất nước, những bậc trí thức tinh thần có những đóng góp giúp cho xã hội phát triển, hay những người đã sống hết mình vì những người xung quanh. Những vị ấy, khi chết đi đều được mọi người thương nhớ, nhớ về những điều tốt đẹp mà họ đã làm trong cuộc sống.
Như vậy, chính họ cũng vẫn còn sống trong tâm trí những người đang sống, vậy cái chết của họ đâu phải là một sự kết thúc, tấm gương của họ vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay.
Còn những người làm những tội ác đối với xã hội, gây nên chiến tranh chết chóc… khi chết vẫn thường được mọi người nhắc đến về sự tàn bạo, không có tình người của họ. Cái chết của họ cũng không phải là sự kết thúc mà tiếng xấu của họ vẫn còn lưu truyền mãi, họ phải luôn chịu ô nhục về những hành động mình đã làm đối với xã hội trong kiếp sinh của mình.
Thế mới có câu:
“Trăm năm bia đá cũng mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
Trên phương diện hữu hình, ta đã thấy rõ rằng: chết không phải là kết thúc tất cả. Chết chính là khởi đầu cho một sự tồn tại mới. Để sự tồn tại của ta có ý nghĩa tích cực cả trong hiện tại lẫn khi ta đã thay đổi sang hình thức tồn tại mới, ta phải sống sao cho mọi người xung quanh yêu qúy mình, đối xử với cuộc sống sao cho hợp lẽ Đạo.
Về phương diện vô hình
Đối với những người có đóng góp cho cuộc sống, dám hy sinh thân mình để làm nên những việc vĩ đại cho xã hội, có đạo đức tốt. Chết đối với những vị ấy là một ân huệ thiêng liêng, dứt bỏ được mọi sự phiền não nơi cõi trần gian giả tạm này. Họ đã làm xong sứ mạng của mình, và ngày họ trở về cõi thiêng liêng thật là vinh hiển.
Đối với những người không làm nên điều gì giúp ích cho xã hội nhiều thì khi chết, họ sẽ được chiếc cân Công Bình thiêng liêng cân những thiện nghiệp và ác nghiệp mà họ đã làm trong kiếp sinh của mình.
– Nếu cân Công Bình nghiêng về phía thiện nghiệp nhiều hơn, họ sẽ được phong phẩm Thần vị hoặc là đầu kiếp trở lại làm người để hưởng phước đức do thiện nghiệp ấy.
– Nếu cân Công Bình nghiêng về phía ác nghiệp nhiều hơn tức là Thiên Tánh đã bị vô minh che lấp quá nhiều, họ sẽ được đưa đến Cõi Âm Quang để sám hối, suy nghĩ về những tội lỗi mình đã làm, được dạy dỗ về Đạo lý. Sau khi kết thúc quá trình sám hối, họ được đầu kiếp để trả nợ những ác nghiệp mình gây ra, học hỏi thêm nhiều điều khác cho trí thức tinh thần phát triển và rèn luyện đạo đức để những hành động của họ trong cuộc sống sẽ làm nên nhiều thiện nghiệp hơn mà thoát khỏi luân hồi nơi khổ hải này.
“Chết là để bắt đầu cuộc sống mới”
tương ứng với định luật bảo toàn năng lượng:
“Năng lượng không tự sinh ra mà cũng không tự mất đi, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác”.
Cuộc sống là món quà vĩ đại mà Đức Thượng Đế ban tặng cho chúng ta. Dù sự thiện lành hay ác trược đều là những món quà có giá trị nếu ta biết được ý nghĩa của nó và tiếp nhận nó một cách vui vẻ thì ta mới trưởng thành. Cái chết chính là một món quà cuối cùng ý nghĩa nhất dành cho ta trong cuộc sống này để chuẩn bị bước vào một cuộc sống khác, tiếp nhận những món quà khác từ Đức Thượng Đế.
Con đường trở về
Bộ tranh minh họa con đường trở về các cõi Thiên, nước Trời, cõi Thiên Đàng, Cực Lạc Quốc… của những linh hồn trong quá trình sống thường ăn chay (tối thiểu 10 ngày/tháng) và có sự tu tập nghiêm túc. Khi kết thúc thọ mạng, những linh hồn ấy sẽ được chư vị Thiêng Liêng dẫn dắt, đưa họ trở về với khối ánh sáng Thái Cực còn gọi là cội Đạo, nguồn gốc sản sinh ra vạn vật.
Phần 1
Diễn tả quá trình sau khi mất, linh hồn sẽ bắt đầu xuất ra khỏi thể xác để hướng về chín Tầng Trời, hướng về con đường đạo đức, thanh tịnh, tu dưỡng tinh tấn.
Quá trình này được miêu tả tóm gọn qua 4 câu thơ trong bài kinh Khai Cửu – Cửu Thiên Thập Nhị Kinh :
”Đã quá chín tầng Trời đến vị
Thần đặng an, Tinh Khí cũng an
Tầng Trời gắng bước lên thang
Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa…”
Sau khi đã trút hơi thở cuối cùng, linh hồn dần lìa khỏi thân xác. Đã tới lúc linh hồn vượt qua chín tầng Trời để trở về với gốc của mình là cội Đạo, là khối ánh sáng Thái Cực, nguồn gốc sản sinh ra vạn vật từ thưở khởi nguyên vũ trụ vậy.
Chín tầng Trời ở đây chính là chín tầng lớp thanh tịnh của Thượng Giới. Lấy cội Đạo làm trung tâm và chín tầng Trời sẽ từ trung tâm lan toả dần ra xa. Có thể hình dung cội Đạo là nhân bánh còn chín tầng Trời là chín lớp vỏ bột lần lượt bao bọc lấy nhân bánh vậy. Chín tầng Trời ấy bao gồm:
– Năm tầng Trời gần cội Đạo nhất, có khí thanh nhẹ màu trắng xà cừ, ánh lên cửu sắc rất đẹp, được biết đến với tên gọi cõi Niết Bàn, Cực Lạc Thế Giới.
Năm Tầng trời ấy theo thứ tự tính từ cội Đạo đi dần ra xa đó là
- tầng Hỗn Nguyên Thượng Thiên,
- tầng Hư Vô Cao Thiên,
- tầng Tạo Hóa Huyền Thiên,
- tầng Phi Tưởng Diệu Thiên và
- tầng Hạo Nhiên Pháp Thiên.
– Bốn tầng Trời tiếp theo là bốn ầng Trời sắc giới, có màu sắc ánh sáng đặc trưng bao phủ lên vạn vật nơi cõi ấy. Bốn tầng Trời ấy là
- tầng Thanh Thiên,
- tầng Huỳnh Thiên,
- tầng Xích Thiên và
- tầng Kim Thiên.
Lúc này, ba phần hồn của linh hồn đó là Tinh, Khí, Thần đều đã an tịnh. Phần Tinh là thể xác đã phải dứt hơi, cũng được an tịnh nơi Hạ Giới. Phần Thần và phần Khí thì an nhiên tự tại nơi vô hình.
Lại nói thêm một chút về Tinh, Khí, Thần:
- – Thần là phần hồn có trí tuệ siêu việt, trọn lành, hay còn gọi là lương tâm, ánh sáng thiên lương. Có lực tác động con người hướng về Chân Thiện Mỹ.
- – Tinh là phần hồn hữu hình do tinh cha huyết mẹ cấu tạo thành, được nuôi dưỡng bằng vật chất thế gian, nên còn gọi là thể xác. Có xu hướng thỏa mãn các nhu cầu thể xác, dục vọng mang tính bản năng của động vật theo điều kiện môi trường sống.
- – Khí là phần hồn có trí tuệ chưa sáng suốt, cần được học hỏi, dẫn dắt bởi hồn thiêng qua quá trình trải nghiệm sinh sống nơi thế gian này. Là bản thân mỗi người, sẽ chịu nghiệp thiện, ác của mình khi xu hướng theo lương tâm hay dục vọng thể xác.
Linh hồn cố gắng bước trên con đường thiêng liêng hằng sống của các phẩm vị linh hồn, mà lên các tầng trời mỗi lúc một thanh tịnh hơn. Bởi lẽ nhập được vào cõi Thượng Giới, cõi Thiên thì linh hồn dù chưa trọn lành cũng đã phải buông xả được các vọng niệm sắc tướng của bản thân, chứng đắc phần nào vô ngã, vô niệm, vô trụ và vô thường. Khi linh hồn bước qua mỗi tầng Thiên, thì linh hồn sẽ được năng lượng của mỗi tầng Thiên tịnh hoá dần các thất tình lục dục, trược khí, uế khí, những ý niệm vướng mắc, thậm chí là vi tế nhất của linh hồn.
Linh hồn sẽ đi từ tầng Thanh Thiên cho đến tầng Hỗn Nguyên Thiên. Trong quá trình này, linh hồn sẽ được tịnh hoá cho đến khi linh hồn mang đủ năng lượng thanh tịnh, thuần lương, thanh nhẹ để hoà nhập với khối Thái Cực, cũng là trở về với các Đấng Tạo Hoá, trở về với nguồn gốc sản sinh ra vạn vật.
Linh hồn nhìn hướng về cõi Thiên mà hồi tưởng, nhớ lại những cảnh nhàn khi xưa của các linh hồn trước khi nhập trần. Linh hồn được nhắc đến ở đây đều là những vị có căn duyên tu tập, có duyên lành với các cõi Thiên từ nhiều đời kiếp trước.
Cho nên, trên con đường đi qua các Tầng Trời để trở về với cội Đạo, các linh hồn ấy sẽ thấy lại những kí ức tươi đẹp giữa mình với những cõi lành nơi Thượng Giới, hồi tưởng về các cảnh bình yên, an lạc nơi cõi Thiên mà họ đã từng trải qua. Từ đó, linh hồn ấy sẽ có thêm động lực, sự thôi thúc từ tâm thức để mau mau cất bước, dục tấn trở về quê xưa của mình, trở về với khối Thái Cực, cội Đạo.
Phần 2
Diễn tả quá trình linh hồn đang dần thực sự giải thoát khỏi thân xác, linh hồn sẽ phải đoạn tuyệt những tình cảm phàm tục, buông xả những dục vọng đảo điên, để tâm trí dần thanh tịnh, an vui mà nhập vào cõi Thiên.
Quá trình này được miêu tả tóm gọn qua 8 câu thơ trong bài kinh Khai Cửu – Cửu Thiên Thập Nhị Kinh :
”Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi
Quên trần ai, mong mỏi Ðộng Ðào
Ngó chi khổ hải sóng xao
Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên
Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ
Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân
Nắm cây huệ kiếm gươm thần
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.”
Khi linh hồn dần rời xa xác phàm, thì linh hồn cũng dần rời xa cõi trần thảm khổ, để đến một thế giới mới. Lúc này, linh hồn được thôi thúc quên hết những đau khổ bi ai mà nhớ về cõi Thiên, nhớ về các cõi tu tập nơi Thượng Giới, những Cung Thiên, Động Thánh, Vườn Đào… Từ đó, sớm quên hết những đau khổ của kiếp sinh vừa qua, để trở về nơi cõi an lạc, tiếp tục con đường tinh tấn của mình.
Đặc biệt, động Đào hay vườn Đào là một cõi nơi Thượng Giới, thuộc tầng Trời Tạo Hóa Huyền Thiên, là một cõi giới vô cùng thanh tịnh, là cảnh giới Niết Bàn, nằm rất gần với khối Đại Linh Quang, Cội Đạo. Các sự tồn tại ở cõi này đều thanh tịnh vô cùng, phải là phẩm vị Tiên mới nhập vào được cõi Giới này.
Vườn Đào là nơi ngự của Đức Từ Mẫu, một trong những Đấng Tạo Hoá của vũ trụ từ thuở khai Thiên lập Địa. Đó cũng là quê hương, là cội nguồn của vạn linh, nơi sản sinh ra vạn linh. Cho nên, trở về vườn Đào cũng là hình ảnh ẩn dụ cho việc linh hồn bắt đầu hành trình trở về với nguồn cội của mình, là khối ánh sáng Thái Cực vậy.
Trong quá trình đó, linh hồn được thôi thúc không nhìn ngó về khổ hải trần gian, nơi dồn dập bao đợt sóng trần đau khổ bi ai. Từ đó, linh hồn sẽ cố gắng dứt hết tình cảm phàm tục, không lưu luyến những dục vọng thường tình nữa, không còn để Thất Tình Lục Dục khiến tâm trí đảo điên. Chỉ còn mang theo những cảm xúc như Hỷ, Ái, Lạc một cách vừa phải, điều độ, sao cho vẫn giữ được tâm thanh tịnh, thì mới vào cõi Thiên được…
Nói một chút về việc làm chủ Thất Tình Lục Dục để tâm trí được thanh tịnh. Thất Tình bao gồm bảy cảm xúc đó là Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ái (yêu thương), Ố (xấu ác), Ai (buồn), Lạc (vui), Dục (ham muốn). Thất tình ấy có thể biểu trưng bởi hình tượng của Thất Đầu Xà, rắn bảy đầu từng được các tôn giáo nhắc đến.
Một linh hồn làm chủ được Thất Tình, cần phải chế ngự được các dục vọng phàm tục, chế ngự các cảm xúc thường tiêu cực như Nộ, Ố, Ai. Đồng thời, có cách phát huy điều độ các cảm xúc thường tích cực như Hỷ, Ái, Lạc, giữ cho các dục vọng cần thiết luôn hướng về cội nguồn, cội Đạo, vạn loại vạn linh. Từ đó, tâm trí mới thường an vui trong sự thanh tịnh, hoà ái, không ngừng tinh tấn.
Hình ảnh rắn ba đầu tượng trưng cho ba cảm xúc mà linh hồn nên giữ một cách điều độ đó là Hỷ, Ái, Lạc. Đồng thời cũng mang ý nghĩa rằng linh hồn đã làm chủ được Thất Tình Lục Dục của mình, để hướng về các cõi Thiên, trở về cội nguồn bằng tâm thanh tịnh, an vui. Do đó, khi còn sống, nên thường tu dưỡng tâm tánh, thường giữ tâm điều độ ấy trong mỗi khoảnh khắc, tịnh hoá dần Thất Tình Lục Dục. Cứ như thế cho đến khi kết thúc thọ mạng, hồn lìa khỏi xác, thì linh hồn mới không bị vướng mắc bởi Thất Tình Lục Dục quá nhiều, để tiếp tục thong dong tự tại giữa Thiên Địa.
Nếu lúc đó, linh hồn nhìn thấy những giọt lệ của trần gian, của thân tộc mình, thì cũng chớ nên vì lẽ đó mà đau lòng, mà bị lôi kéo trở lại trần gian tiếp tục trầm luân. Phải quyết tâm, giữ tâm thanh tịnh, an vui, hướng về cõi Thiên, tíêp tục con đường tinh tấn, tu tập quang minh sáng suốt. Đó mới là cách tốt nhất để giúp cho thân tộc mình được chuyển hoá phần nào nghiệp chướng, không còn phải trầm luân trong vòng vay trả, đầu thai. Liên hệ lại với quá trình khi mình còn sống, nên cố gắng hướng về lối sống cao thượng, vun bồi con đường đạo đức, tạo ra nhiều công nghiệp, thiện nghiệp sâu dày. Đó mới là cách đem lại hạnh phúc chân thật không chỉ cho mình mà còn cho thân tộc và con cháu sau này của mình nữa.
Sự chuyển duyên giữa linh hồn và Cửu Huyền Thất Tổ.
Hệ thống Cửu Huyền Thất Tổ tính luôn cả mối quan hệ bên ngoại, bên người mẹ chứ không chỉ riêng bên nội của người bố. Do vậy, mỗi người trong quá trình sống, tương tác với thế giới quan quanh mình như thế nào thì nó có ảnh hưởng cộng nghiệp thiện ác đến những người có quan hệ ruột thịt với mình, chứ không chỉ đơn giản là ai làm thì tự chịu trách nhiệm với riêng mình.
Một người sống giữa cuộc đời, sẽ chịu những nhân duyên nghiệp quả của bản thân và gia tộc của đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Nên nếu ai có thể đắc Đạo, tức là từ cấp 7 trở lên trong 9 phẩm vị tinh tấn của linh hồn, được liệt vào hàng trọn lành, thì công nghiệp, thiện nghiệp phước đức của linh hồn đó đủ sức chuyển hóa các duyên nghiệp của cả Cửu Huyền Thất Tổ, độ rỗi cho gia tộc mình.
Sau khi đã quyết tâm gác bỏ những đau khổ, dục vọng phàm tục để hướng về cõi Thiên, cõi lành. Lúc này, linh hồn như đang cầm thanh Huệ kiếm bên mình. Huệ kiếm là thanh gươm trí tuệ. Điều này có nghĩa là linh hồn phải lấy trí tuệ của mình, để nhìn nhận những sự khổ nơi thế gian là cần phải đoạn tuyệt, từ đó mới hồi hướng về miền an lạc được.
Nói một chút về việc linh hồn bị mắc kẹt trong vòng trầm luân khổ hải. Một linh hồn khi phát xuất những ý niệm động tình, mang xu hướng của ích kỉ, tư dục, loạn động, sẽ tạo nên dòng năng lượng tiêu cực. Dần dần, khối năng lượng ấy tích tụ càng ngày càng lớn và rồi khiến cho linh hồn ấy bị vướng mắc vào tham sân si, làm trì trệ sự tinh tấn của linh hồn ấy. Từ đó, linh hồn ấy sẽ cứ lặn ngụp trong trầm luân khổ hải, khó lòng thanh tịnh được.
Cho nên một khi dứt tuyệt những tơ tình phàm tục, giữ tâm trí thanh tịnh, hoà ái, hướng về muôn sinh. Khi ấy, linh hồn sẽ có trí tuệ quang minh, sáng suốt để vượt lên trên những tranh đấu, tình trường thế tục, thoát khỏi vòng luân hồi mà trở về những cõi Thiên, những cõi an lành nơi Thượng Giới.
Phần 3
Diễn tả quá trình linh hồn đang dần thực sự giải thoát khỏi thân xác, linh hồn phải buông xả các chấp niệm vướng mắc đau khổ xác thân, dần an định Thần Trí, sao cho đủ năng lượng thanh tịnh để nhập vào cõi Thiên.
Quá trình này được miêu tả tóm gọn qua 8 câu thơ trong bài kinh Đệ Nhất Cửu – Cửu Thiên Thập Nhị Kinh :
”Vườn Ngạn Uyển Sinh Hoa đã héo
Khối hình hài phải chịu rã tan
Bảy dây oan nghiệt hết ràng
Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương
Kìa Thiên Cảnh con đường vòi vọi
Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu
Cung Thiềm gắng bước cho mau
Thoát ba Thần Phẩm đứng đầu Tam Thiên…”
Mỗi sự tồn tại trong vũ trụ không đơn độc, mà luôn được Thiên Địa, vạn loại trưởng dưỡng. Thể hiện qua việc mỗi sinh linh trong vũ trụ đều có liên kết với một bông hoa sinh mệnh, luôn được chư vị chăm sóc nơi cõi Thiên. Khi duyên tận, bông hoa sinh mệnh ấy héo tàn, thì thân xác phải rã tan thành tro bụi, linh hồn chớ nên bám chấp. Mà việc cần làm là buông xả mọi vướng mắc với thân xác này, để tiếp tục tinh tấn.
Chia sẻ một chút về bông hoa sinh mệnh của mỗi sinh linh:
Vườn Ngạn Uyển ở tầng Tạo Hóa Huyền Thiên, là một tầng Thiên rất gần với khối Thái Cực. Nơi đây có muôn vạn bông hoa khoe sắc. Mỗi một bông hoa tượng trưng cho một sinh mệnh trong vũ trụ.
Một bông hoa tươi thắm là khi sinh linh ấy được khỏe mạnh, trí não tinh thần phát triển.
Khi sinh linh nơi thế gian này trở nên yếu kém về thể chất, tinh thần thì bông hoa nơi Vườn Ngạn Uyển cũng trở nên ủ rũ, kém tươi tắn.
Sinh linh nào gặp chướng ngại, đau khổ thân tâm, nguy hại đến thân mạng của mình nhưng thọ mạng chưa đến hồi kết thúc, khi ấy sẽ được chư vị Thiên Nữ coi sóc nơi này chăm sóc bông hoa sinh mệnh của họ, làm cho nó được tươi tắn trở lại, không còn bị ủ rũ nữa. Nhờ , thân tâm của sinh linh ấy cũng được an lạc, khỏe mạnh hơn, vượt qua được cơn nguy khốn.
Khi thọ mạng của một sinh linh kết thúc, phải từ bỏ xác phàm nơi thế gian, thì bông hoa sinh mệnh ấy cũng tàn úa. Để rồi, từ nơi đóa hoa lụi tàn ấy phát sinh một mầm hoa mới, tượng trưng cho sự chuyển sinh sang dạng tồn tại mới của sinh linh ấy hoặc tái sinh ở một cõi nào đó trong vũ trụ.
Qua đó thấy rằng thọ mệnh nơi thế gian phần nào đã được ước định, được Tạo Hoá an bài. Phần còn lại nằm ở nguyện lực, ý chí, lối sống của mỗi sinh linh trong quá trình tương tác, chuyển hoá các nhân duyên giữa mình với cuộc đời.
Do đó, trong quá trình sống, mỗi sinh linh nên cố gắng hết sức với các nhân duyên mình còn đang có nơi cõi trần, hướng về lối sống cao thượng, tích cực, vì thọ mệnh này là hữu hạn, nên cần biết trân quý. Sống và để lại những giá trị tốt đẹp cho đời, để mình sẽ luôn bất tử trong lòng người ở lại.
Đến lúc duyên tận, hết nhân duyên với xác phàm, hết nhân duyên với cõi trần giả tạm, linh hồn sẽ chẳng còn gì để luyến tiếc nếu đã sống hết mình như thế.
Thân xác sẽ rã tan nhưng nguyện lực, ý chí, lối sống mà linh hồn lựa chọn sẽ tiếp tục đưa linh hồn trở thành những dạng tồn tại mới, tiếp tục trải nghiệm, học hỏi, để ngày càng tinh tấn, trọn lành.
Và rồi, ở một dạng tồn tại mới, một thọ mạng mới, một trải nghiệm mới, bông hoa sinh mệnh mới lại nảy mầm, lớn lên từ trong tro bụi, rồi trưởng thành và nở rộ xinh đẹp. Giống như cách bông hoa sinh mệnh sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh rồi diệt như thế…Thực sự thấu hiểu và chấp nhận lẽ sinh diệt vô thường ấy, thì linh hồn sẽ sống một kiếp sinh nơi cõi trần thật tỉnh thức, ý nghĩa, không bám chấp quá nhiều. Cũng như nếu chẳng may, kết thúc thọ mạng, thì linh hồn cũng ít vướng mắc vào xác thân hoại diệt, để có thể tiếp tục hành trình tinh tấn của mình.
Lúc này, linh hồn dần từ bỏ thể xác. Điều này cũng đồng nghĩa với việc linh hồn không còn bị thất tình lục dục níu kéo nữa. Linh hồn đã từ bỏ tất cả mọi đau khổ nơi thế gian này. Sự chết cũng là một sự giải thoát mọi phiền não của thế gian.
Cho dù đau khổ, tội lỗi, vướng mắc bao nhiêu, một khi linh hồn từ bỏ xác phàm, thì linh hồn ấy vốn dĩ không còn bị chi phối bởi những dục vọng tình cảm thường tình nơi thế gian nữa. Nếu thật sự tin và hiểu điều đó, phủi sạch những bám chấp thì sau khi thoát xác, linh hồn vẫn có thể tồn tại một cách an vui, tự do trong vũ trụ. Từ đó, linh hồn vẫn có thể thong dong, tự tại, tiếp tục hành trình học hỏi, tấn hoá của mình ở những cõi giới mới.
Chia sẻ một chút về mối liên hệ giữa bảy sợi dây Thất Tình Lục Dục đối với thân xác sau khi kết thúc thọ mạng:
Tam Thể Xác Thân của con người là ba phần cấu tạo nên con người nơi thế gian. Bao gồm:
- – Thể Xác là phần xác thân hữu hình hữu hoại, được hình thành từ tinh cha huyết mẹ, nuôi dưỡng và trưởng thành nhờ vật chất hữu hình qua hình thức ăn uống. Có xu hướng thỏa mãn các nhu cầu thể xác lẫn tinh thần mang tính bản năng giống như cầm thú.
- – Thể Linh là phần chơn linh trọn lành, là điểm linh quang được chiết xuất từ khối Đại Linh Quang nhiệm màu của Đạo. Có xu hướng về Chân, Thiện, Mỹ.
- – Thể Trí là phần trí thức, trí não tinh thần của chính bản thể mỗi người. Phần này được hình thành từ hai khí Âm Dương trong Trời Đất. Tự nó sẽ phải chịu trách nhiệm với những lựa chọn sống theo Thể Xác, hay Thể Linh bởi những thiện ác nghiệp của thân tâm, khẩu, ý khi tương tác với chúng sinh.
Thể Linh và Thể Trí luôn đi chung với nhau, gọi chung là chơn hồn. Chơn hồn ra các thông tin chỉ thị cho Thể Xác thực hiện thông qua 7 sợi dây oan nghiệt, gọi là Thất Tình Lục Dục. Thể Xác cũng tương tác ngược lại đến với chơn hồn các ham muốn của nó thông qua 7 sợi dây ấy.
Khi Thể Xác chết đi, 7 sợi dây vẫn còn liên kết với chơn hồn, nên thần thức của chơn hồn vẫn có ý niệm về việc đau đớn khi thể xác bị tổn hại như là quá trình phân hủy xác, hoặc bị cắt chặt, bị dòi bọ tấn công…
Vì quá trình xác hư hoại thối rữa, sâu bọ đục khoét thì chơn hồn vẫn cảm nhận các nỗi đau đớn ấy. Cho nên có những chơn hồn khi thị hiện giống với thân xác của họ ở thời điểm ngay lúc ấy thì họ thị hiện thân ảnh đang hư hoại.
Sau nhiều năm, chỉ đến khi Thể Xác phân hủy hoàn toàn phần da thịt, các cơ quan nội tạng, não, thân xác đã bị phong hóa thành cát bụi, chỉ còn xương cốt trắng thì lúc đó 7 sợi dây cũng tiêu biến hoàn toàn chơn hồn ấy mới không còn bị chi phối về nỗi đau của thể xác nữa, có thể được xem là hoàn toàn tách biệt khỏi chấp niệm nỗi đau thân xác phân hủy. Nhưng vẫn có một số chơn hồn vướng chấp nặng nề, thì dù xác thân đã thành khô lâu bạch cốt vẫn còn vướng mắc các nỗi đau cảm xúc.
Một số thuật pháp như là “Hỏa Thiêu” và “Đoạn Căn”, “Cầu Siêu Độ” thì có thể giúp cho chn hồn chịu đau đớn một lần rồi thôi không vướng chấp niệm nỗi đau thân xác hư hoại dần khi đã chết, cắt hết 7 sợi dây liên kết này để chơn hồn không phải chịu đau đớn trong quá trình thể xác phân hủy.
Lúc này, linh hồn hướng mắt về nơi xa xa, nhìn thấy thấp thoáng hư ảo cõi Thiên tươi đẹp. Từ Ngọc Hư Cung, ánh sáng từ bi của Đức Hồng Quân Lão Tổ soi rọi khắp nơi. Linh hồn một lần nữa được thôi thúc trở về quê nhà.
Ngọc Hư Cung là cung điện được kết tụ bởi khí chất thanh khiết, trắng ngà như bạch ngọc. Cả Ngọc Hư Cung cũng là một linh thể sống động, các phù điêu hình ảnh trên tường đều có thể biến hóa hư ảo, vi diệu vô cùng.
Ngọc Hư Cung nằm trong quần thể kiến trúc thanh tịnh có tên là Bạch Ngọc Kinh. Đây là một kinh đô tráng lệ, tận thiện tận mỹ, có màu trắng tinh khôi, được kết tinh bởi những lằn khí thanh nhẹ bao quanh khối Thái Cực, có tính chất gần giống với hư vô, nhẹ nhàng thuần khiết, thanh tịnh vô cùng.
Ở Ngọc Hư Cung, trên Bạch Ngọc Đài, Ngôi Hư Vô tịch tĩnh thì có Đức Hồng Quân Lão Tổ ngự nơi ấy. Người thường an định tại Bắc Đẩu Cung, là vị chưởng quản Bắc Đẩu Cung, là vị Thầy dạy Đạo của muôn loại sinh linh, đưa chúng sinh hồi hướng về Đạo Nguyên.
Sau khi buông xả các chấp niệm đau khổ, vướng mắc nơi thân xác lẫn thế gian, linh hồn nhìn thấy thấp thoáng Ngọc Hư Cung, cảnh giới gần khối Thái Cực và cảm nhận ánh sáng Thiêng Liêng từ bi. Hình ảnh này gợi nhắc về việc sau bao đau thương, chỉ cần trong tâm thức của linh hồn vẫn còn một sự chân thành, khao khát hướng về Đạo Pháp, hướng về nguồn cội, thì linh hồn ấy sẽ vẫn luôn được các Đấng Thiêng Liêng cứu rỗi, tha thứ, vẫn luôn có nơi bình yên để trở về.
Chính tâm thức của linh hồn khi đó cũng đủ rộng mở để không chỉ tìm cách hoá giải những gì bản thân còn vướng mắc, mà còn hướng về việc đem lại lợi lạc cho muôn sinh. Nhờ đó, có thể tịnh hoá, chuyển hoá tích cực thêm nhiều các nhân duyên, tiếp tục bước đi trên con đường tinh tấn, ngày càng trọn lành, trở về cội nguồn là khối Thái Cực.
Thực ra, không cần để đến lúc chết, linh hồn của mình mới làm việc đó. Trong quá trình sống, thay vì bị nhấn chìm trong những cảm xúc tiêu cực như đau khổ, hối tiếc, tội lỗi…mình cũng nên chủ động đối diện với các thiện ác nghiệp của mình, hiểu rõ lẽ tốt, xấu của nó, để rồi cái gì buông xả thì nên buông xả, hoặc tìm cách hoá giải nó trong lẽ công bình, hoà ái. Dù điều gì xảy ra, tha thứ cho bản thân và không ngừng học hỏi, hướng về Chân Thiện Mỹ, hướng về lối sống cao thượng, hoà ái với muôn sinh mới là việc mình cần luôn làm.
Cung Thiềm ý chỉ về Quảng Hàn Cung nơi mặt trăng. Thiềm ý nói về con cóc, người xưa nhìn mặt trăng thấy lốm đốm như da cóc nên gọi mặt trăng là Cung Thiềm.
Các linh hồn có tu tập nhất định, khi vừa thoát khỏi xá thân sẽ còn vướng mắc những chấp niệm đau khổ cận tử nghiệp, rất khó để thăng Thiên. Do vậy, trước khi nhập vào cõi Thượng Giới, họ sẽ được chư vị Chánh Thần dẫn đến tập trung ở Thiềm Cung, hay còn gọi là Quảng Hàn Cung nơi cõi Trung Giới của Nguyệt Tinh. Ở không gian tịch tĩnh này, có chư vị Hỷ Lạc Thiên xướng ngâm chú văn và dùng các giai điệu du dương giúp cho họ bớt phần loạn động bởi vướng mắc chấp niệm cận tử nghiệp. Ở đó tịnh tâm, định trí, thần phách an tịnh
Trong thời gian chừng vài ngày đến mười ngày theo thời gian của loài người ở Hạ Giới, linh hồn có thể sẽ định thần tịnh trí, tỉnh táo nhận biết được bản thân đã vong thân mạng, buông xả các vướng mắc nơi trần gian, bắt đầu hành trình chuyển sinh du nhập Trung giới, Thượng Giới.
Nếu linh hồn đủ đức hạnh, công nghiệp thiện phước thì rồi thì sẽ được đưa đến Ngân Hà, bước qua bờ Ngân Hà bằng Ngân Kiều rồi tiến nhập vào cõi Thiên, Ngân Kiều bắc ngang qua Ngân Hà, thăng tiến về cõi Thượng Giới, nhập vào cõi Thiên.
Linh hồn hành giả nếu qua hết 3 phẩm Thần lên đến cấp 4 là phẩm Thánh thì có thể nhập vào cõi của chư Thánh nơi ấy, là nơi thuộc khoảng giao nhau cuối Trung Giới và đầu Thượng Giới của các tầng trong Cửu Trùng Thiên, hay còn gọi là chín tầng Trời. Lúc này, linh hồn cũng bước đầu nhập được vào cõi Thiên.
Bên cạnh việc nhập vào cõi Thiên, linh hồn cũng có thể tu tâm dưỡng tánh sao cho thật ưu tú, để được chọn vào hàng ngũ 3000 vị Thánh trong hệ thống Thần Tiên Thiên Đình. Trong hệ thống phẩm tước Thiên Đình thì về số lượng sẽ lựa chọn có 3000 vị Địa Thánh, tức ở cấp 4 phẩm vị linh hồn. Số lượng nêu trên là con số của một Thiên Đình cai quản một khu vực nhất định trong Tam Giới.
Còn nếu xét về số lượng của các phẩm cấp trong Tam Giới thì là vô lượng, hàng hà sa số.
Chia sẻ một chút về vị trí của Thượng Giới (cõi Thiên) trong vũ trụ:
Khởi nguyên vũ trụ là hư vô, gần như hoàn toàn trống rỗng, vắng lặng tịch tĩnh như không có gì, lại ẩn tàng trong ấy hai khí chất tương sinh tương khắc nhau là Âm Dương Khí. Lúc bấy giờ từ trong Hư Vô Khí, hai lằn khí âm dương kết giao với nhau, gọi là Duyên Khởi, phát sinh một quầng sáng và tiếng nổ lớn bao la vô cùng vô tận.
Tia sáng ấy chính là khối ánh sáng Thái Cực vĩ đại, còn tạm được gọi là Đạo. Vì muôn vật loại, vạn linh đều phát xuất từ đây, nên còn gọi khối năng lượng vĩ đại ấy là Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu của muôn vật loại.
Tiếng nổ lớn đó chính là tiếng “Om” vi diệu, khoa học còn gọi là Big Bang. Lúc bấy giờ, vũ trụ bắt đầu xuất hiện các dòng khí, năng lượng khác nhau, tạm gọi nôm na là Ngũ Khí. Ngũ Khí luân chuyển xoay vần nên gọi là Ngũ Hành, bổ sung và khắc chế lẫn nhau liên tục, thời điểm này chính là Hỗn Độn Thời Không của vũ trụ.
Sau đó, Ngũ Khí thanh nhẹ phân định rõ ràng thành các tầng Thiên vô vi tinh khiết thanh tịnh, gần gũi với khối Thái Cực. Khoảng không gian này gọi là Thượng Giới.
Ngũ Khí trọng trược lắng đọng, hấp dẫn nhau, kết tinh lại thành các tinh cầu, thiên thể hữu hình, hay gọi là Địa Giới, Hạ Giới.
Khoảng không gian tiếp giáp giao nhau giữa hai cõi Thượng Giới và Hạ Giới hay bầu khí quyển của các cõi Hạ Giới được gọi là Trung Giới. Trung Giới có năng lượng âm dương hỗn độn.
Để dễ hình dung, có thể xem khối Thái Cực luôn nằm ở trung tâm, như một bóng đèn đang phát sáng, lan toả ánh sáng ra một khoảng không gian, không gian sáng ấy tạm xem là Thượng Giới. Xa hơn nữa là các tinh cầu, địa cầu, cõi hữu hình tạm xem là Hạ Giới. Khoảng không gian tiếp giáp giữa Thượng Giới và Hạ Giới, hơi mờ mịt, thiếu sáng thì được xem là Trung Giới.
Phần 4
Diễn tả quá trình linh hồn đang dần thực sự giải thoát khỏi thân xác. Lúc này, linh hồn vẫn còn chưa tự do khỏi xác thân hoàn toàn, vẫn còn quanh quẩn gần thân xác. Linh hồn sẽ dần tịnh tâm, tỉnh thức, để buông xả, phủi sạch vướng mắc với các oan gia trái chủ cũng như các nghiệp chướng oan trái đang gắn liền với thân xác. Nhờ vậy, linh hồn mới đủ mạnh mẽ dứt ra khỏi những ràng buộc với vòng vay trả luân hồi. Từ đó, có thể trở về cõi Thiên, tiếp tục tu dưỡng để hoá giải các nghiệp chướng bằng các phương thức thiện lành, phù hợp, hoà ái, ít có sự tranh đấu. Quý bạn có thể bấm vào từng hình để xem chi tiết hơn về sự miêu tả và các khái niệm được nhắc tới.
Quá trình này được miêu tả tóm gọn qua 8 câu thơ trong bài kinh Đệ Nhất Cửu – Cửu Thiên Thập Nhị Kinh đó là:
”Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại
Ðoạn cho rồi oan trái buổi sinh
Ðem mình nương bóng Chí Linh
Ðịnh tâm Chí Thánh mới gìn ngôi xưa
Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh
Phách anh linh ắt phải anh linh
Quản bao thập ác lục hình
Giải thi thoát khổ diệt hình đoạn căn…”
Sau khi mất, linh hồn vẫn còn chưa tự do khỏi xác thân hoàn toàn, vẫn còn quanh quẩn gần thân xác. Lúc này, linh hồn sẽ ráng thức tỉnh để nhớ lại tiền duyên của mình mà đoạn trừ các nghiệp chướng oan trái nơi trần gian đã từng đan kết. Các kí ức tiền duyên sẽ xuất hiện, nếu linh hồn đủ định tâm tỉnh thức thì sẽ nhớ lại được cội nguồn của mình là khối Thái Cực, còn gọi là cội Đạo. Nhớ lại rằng linh hồn vốn dĩ là khối ánh sáng trong sạch, thuần lương, vô nhiễm, tồi tại trong xác thân giả tạm. Nay xác thân dần rã tan, nếu chân thành tin tưởng vào khối ánh sáng nơi mình, linh hồn sẽ đoạn tuyệt với những oan trái đang ràng buộc, níu kéo mình vào nẻo luân hồi vay trả. Linh hồn lựa chọn trở về với ánh sáng, trở về với nguồn cội để hoá giải các vướng mắc trong ánh sáng của Công Bình Hoà Ái.
Chia sẻ một chút sự cấu thành của những oan trái, mối oan nghiệt, mối quan hệ giữa linh hồn và các oan gia trái chủ:
Những oan nghiệt và mầm ác mà con người sống ở thế gian đã gây ra, tạo thành những sợi dây vô hình ràng buộc lẫn nhau, trở thành oan gia trái chủ. Vì thế, người ta thường ví trái oan trong nhiều kiếp như cuộn dây tơ chằn chịt, nên gỡ mối chớ không nên kết, vì càng kết lại càng thêm rối, càng sinh oan trái, càng tạo ra khổ đau, phiền não. Rồi cứ oan oan tương báo, không bao giờ dứt được. Điều oan trái chẳng khác nào những cuộn dây tơ, nếu để mối tơ bị rối thì gỡ bao giờ cho ra.
Những duyên nghiệp mà chúng sinh gây nên trong quá trình lăn lộn tìm kế sanh nhai ở đời, nhất là những sự có liên quan đến ham muốn, danh lợi quyền khiến cho chúng sinh càng vướng mắc vào vòng khổ hải bởi sự ràng buộc của duyên nghiệp do mình gây nên.
Khi oan gia trái chủ theo linh hồn mình lúc linh hồn đã lìa khỏi xác. Họ sẽ có xu hướng lôi kéo, đeo bám linh hồn với tâm tình báo thù, đòi nợ. Linh hồn nếu không vững tâm Đạo, bị cuốn theo năng lượng trì trệ, loạn động, tiêu cực ấy, thì linh hồn có thể lựa chọn tiếp tục đầu thai để thoát khỏi những sự công kích đến từ các oan gia, hoặc để trả nợ những việc ác mà mình đã gây ra cho các oan gia ấy. Nếu không định tâm, tỉnh thức được, thì linh hồn cứ bị nhân duyên nghiệp quả lôi kéo, mà lẩn quẩn trong vòng luân hồi vay trả. Để rồi quên mất việc bên trong mình vẫn có ánh sáng Thiên Lương, quên mất việc mình luôn có cội nguồn để trở về, rất khó để giải thoát.
Do đó, lúc bị các oan trái nghiệp chướng lôi kéo, nhìn thấy các tiền duyên, nghiệp lực tác động đến tâm tình, linh hồn cần phải tỉnh thức, để không vướng mắc, lưu luyến với những gì đã xảy ra, đặc biệt là những oan trái, nghiệp chướng luôn muốn kéo mình vào vòng vay trả, đau khổ bất tận. Thay vào đó, tập trung vào những gì tích cực mình đang có ở hiện tại để sống tốt nhất, tinh tấn nhất có thể. Bởi lẽ, xác thân đã rã tan, linh hồn vốn dĩ đã tự do, có thể trở về với cõi Thiên để tiếp tục hành trình tinh tấn, hoá giải các vướng mắc nghiệp chướng mà mình vẫn còn đang mang bằng sự từ bi, trí tuệ và thiện hành, không nhất thiết phải hoá giải bằng sự luân hồi đầu thai.
Nếu linh hồn hiểu rõ được sự tự do ấy mà mình luôn có và vạn vật đều chung một gốc là Đạo sinh ra, đều là anh em, thì sẽ tự đưa mình ra khỏi vòng vay trả tranh đấu, mà lựa chọn yêu thương, tha thứ, hướng về sự hoà ái, an tịnh nơi cõi Thiên để tiếp tục tu dưỡng tinh tấn, đem lại những lợi lạc chung cho tất cả các anh em vạn loại. Khi ấy, các oan gia trái chủ của linh hồn cũng sẽ nhận được đền bù xứng đáng, các nghiệp chướng cũng sẽ được hoá giải.
Sau khi quyết tâm lựa chọn trở về với khối ánh sáng Thái Cực, linh hồn sẽ đem tâm thức nương theo ánh minh triết của Chí Linh, tức là khối ánh sáng Thái Cực, là cội Đạo. Linh hồn sẽ định tâm lại phải thật là chí Thánh, tức là bỏ phàm tâm mà trở nên siêu việt, siêu phàm nhập Thánh, trở thành bậc thượng nhân mới gìn giữ được ngôi xưa, ý nói về phẩm bậc cao trọng của linh hồn trước khi nhập trần, cao nhất đó chính là cái gốc vạn vật, là Đạo, là hòa mình với Đạo.
Nghe theo sự dìu dẫn của ánh sáng Thiên Tánh mà đem thể xác, trí não tinh thần hòa cùng Thiên Tánh trọn lành để đi trên con đường Đạo Pháp mà trở về đúng nơi linh hồn đã xuất phát từ cõi thiêng liêng để đến cõi trần.
Không còn bị lôi kéo vào dòng luân hồi khổ hải. Thay vào đó, linh hồn sẽ dùng trí tuệ và từ bi để chuyển hoá những nhân duyên vướng mắc giữa mình và chúng sinh. Tâm thức ngày càng rộng mở, tinh tấn, trọn lành, giúp mình giúp vạn linh vốn cũng là các anh em cùng một gốc sinh ra, ngày càng tinh tấn trên con đường trở về với cội Đạo. Khi linh hồn xem tất cả vạn linh là anh em, là một phần ruột thịt của mình, luôn dùng tình yêu thương và sự thật để giúp mình và các anh em cùng nhau tốt đẹp hơn. Lúc đó, các oan gia trái chủ cảm được tấm chân tình của mình, thì họ cũng được tịnh hoá, dần hướng về lối sống hoà ái, để rồi các nghiệp chướng oan trái cũng sẽ dần được hoá giải.
Khi linh hồn đã tịnh tâm, tịnh thần định tỉnh rồi thì hồn phách tự nhiên sẽ bộc phát Tánh Linh, tức là phần trọn lành của Đạo bên trong mỗi linh hồn, hay còn gọi là Thiên Tánh được phát xuất linh quang mà thông tuệ vạn sự.
Phách ở đây là bảy tính chất tâm tư tình cảm của chúng sinh nơi thế gian, bao gồm:
– Hỷ: Mừng
– Lạc: Vui
– Ái: Yêu thương
– Nộ: Nóng giận
– Ác: Ích kỷ, xấu
– Ai: Buồn rầu
– Dục: Ham muốn
Phách nói rộng ra cũng là những hình ảnh năng lượng của tư niệm, là những phàm tánh của thân xác giả tạm.
Linh hồn nếu chế ngự, tịnh hoá được bảy tính chất tâm tư tình cảm này lẫn các phần Phách của bản thân, làm chủ nó hoàn toàn, không để nó chi phối thân tâm của mình, đưa tất cả các Phách quy hồi về khối ánh sáng thuần lương của Thiên Tánh, thì hồn và xác sẽ hài hoà, sáng tỏ mọi vướng mắc, thông tuệ vô cùng tận. Linh hồn đang tiến gần hơn với Đạo.
Linh hồn nên chưa làm chủ được bảy tâm tình cảm xúc, các phách cũng như phàm tánh của bản thân một cách hoàn toàn thì vẫn dễ sa vào trầm luân, khổ hải của Thất Tình Lục Dục, điên đảo mộng tưởng.
Linh hồn trải qua những oan trái, ác nghiệp khi còn mang xác phàm. Những oan trái, ác nghiệp đó được đan kết và thể hiện tạo thành Thập Ác và Lục Hình.
Thập Ác là mười điều ác từ thân, khẩu, ý gây ra như:
Thân: Sát sinh, trộm cướp, tà dâm.
Khẩu: Nói dối, nói ác hành kẻ khác, nói thêu dệt, nói gây chia rẽ.
Ý: Tham lam, sân giận, si mê.
Lục Hình là sáu hình thức gây nên nghiệp từ Lục Căn bên trong và Lục Trần bên ngoài.
Lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Khi còn mang xác phàm, để tiếp tục sống và tinh tấn nơi mặt thế gian, linh hồn đã trải qua và lướt qua được những điều như thế, những cám dỗ và sự khổ như thế. Để rồi, giờ đây rời khỏi thân xác, linh hồn cũng phải cởi bỏ luôn những chướng ngại vẫn còn đang ràng buộc linh hồn mình trong cái khổ phàm tục. Từ đó, dứt khổ mà đoạn căn, tức là trở về với căn gốc của mình. Căn gốc ấy có thể là cội Đạo hoặc là vị Thiêng Liêng nào đó chiết linh, tạo ra linh hồn mình, vị ấy vốn cũng một sự thị hiện của Đạo đó vậy.
Phần 5
Diễn tả quá trình linh hồn đã đủ tịnh lặng, nhìn thấy rõ lẽ huyền vi màu nhiệm của Trời Đất, để thực sự rời khỏi được xác phàm, xa dần cõi Địa Cầu để tiến nhập vào cõi Thượng Giới, chuẩn bị vượt qua chín Tầng Trời mà trở về với cội Đạo.
Quá trình này được miêu tả tóm gọn tương ứng với 8 câu thơ trong Kinh Đệ Nhị Cửu – Cửu Thiên Thập Nhị Kinh đó là:
”Tây Vương Mẫu Vườn Ðào ướm chín
Chén trường sinh có lịnh ngự ban
Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng
Chân Thần khá đến hội hàng chư Linh
Ðã thấy đủ Thiên Đình huyền pháp
Cổi giác thân lên đạp Ngân Kiều
Ðẩu Tinh chiếu thấu Nguyên Tiêu
Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư
Khí trong trẻo dường như băng tuyết
Thần im đìm dường nét thiều quang
Xa chừng thế giới Ðịa Hoàn
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng…”
Bạn đọc comment:
Như Bình Những người ăn chay 10 ngày thì làm gì mà không khỏi luật cấm bất sát sanh của nhà Phật, nếu Tu thì mình phải tuyệt đối không xác sanh hại vật ,chỉ có ăn chay trường mới có tuân theo luật giới cấm,l à cấm bất sát sanh mà thôi ,còn nói ăn 10 Ngày thì làm khi thoát xác thì làm sao được chín từng Trời được? Nếu nói Linh Hồn được lên chín tuần Trời thì lấy gì làm Bằng Chứng , để cho nhơn sanh tin được?
TGTT Bạn hiểu đúng rồi ạ.
Trường trai giới sát, và phải có tu dưỡng tâm tánh mới thực sự giải thoát. Còn ăn chay trường thôi mà không có tu dưỡng, tâm tình vẫn còn những tham sân si đủ đầy thì vẫn sa đọa ạ.
Ở đây, việc được “Thọ Truyền Bửu Pháp” chính là được sự trợ duyên của kinh điển, niệm lực, nguyện lực của các bạn đồng tu, của chư vị thiêng liêng cứu độ chúng sinh và việc chia sẻ trực tiếp Nghiệp Thiện Ác với thân tộc lục thân
Chân hồn không có ăn chay trường, chỉ ăn tối thiểu 10 ngày 1 tháng thì được trợ duyên để được nhìn thấy, đến cõi Thiên trong một khoảng thời gian ngắn, có thể hiểu nôm na giống như việc chúng ta nếu muốn hưởng cảnh an lạc ở nơi thanh bình trù phú thì phải có nhiều tiền để mua đất cất nhà định cư… nhưng nếu không có nhiều tiền thì có thể đi du lịch ngắn hạn ở đó. Qua việc du lịch về cõi Thiên một khoảng thời gian ngắn này sẽ kết thêm duyên lành, chơn hồn nhìn thấy, thấu hiểu được các sự vận hành của vũ trụ. Từ đó họ sẽ thuận duyên thực sự hồi hướng tu Đạo giải thoát. Việc tu tập tiếp theo này, có thể tu tập ở linh giới Trung Giới, cũng có thể chuyển sinh vào trần gian đầu thai chuyển kiếp, tùy theo lựa chọn của chơn hồn ấy do nghiệp quả chi phối họ ra sao.
Chớ chưa ăn trường trai, chưa giữ các giới thật tốt, chưa có tu dưỡng nghiêm chỉnh thì chơn hồn không cách nào an trú ở cõi Thiên được. Việc đến cõi thiên là được trợ duyên trong thời hạn ngắn thôi.
Và dù sao, chúng ta cũng không thể phủ nhận tính bất dị biệt của Thiện Ác vận hành trong 2 mặt đối lập của mọi vấn đề, cần nên hiểu rõ ý nghĩa của “Quay đầu là bờ”, “Buông đao thì thấy Phật”, lý Tính Không của Bát Nhã về các sự vận hành cũng bởi do chấp niệm, chấp tưởng… ngũ uẩn giai không.
Cám ơn bạn đã chia sẻ ạ. Chúc bạn cùng thân bằng quyến thuộc thân tâm thường lạc, tinh tấn
Nguyễn Thành.
..Ráng tu đắc đạo cứu cửu huyền
Thoát chốn mê đồ đến cảnh tiên.
Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo
Cho ta hình vóc nhọc cơ huyền…
…Ngày nào đắc được lục thông
Vớt hồn cha mẹ tổ tông bảy đời…
(Lời Đức HUỲNH GIÁO CHỦ. PGHH)
Cửu huyền thất tổ không chỉ 7 cấp hay 9 cấp trong đời này mà luôn trong 7 đời ( KIẾP) trước nữa.
Xem thêm các bài viết của
Tam Giới Toàn Thư
Ý NGHĨA CỦA CÁI CHẾT
(Bài có những triết lý sâu sắc, nên lưu lại đọc nhiều lần để hiểu)
Hàng ngày chúng ta đau đớn khi nhìn thấy bạn bè người thân rời cõi trần tục. Nhìn thấy những lời chia buồn báo tử trên phây. Chúng ta không khỏi ngậm ngùi và hãi hùng cái chết. Nhưng nếu hiểu thấu đáo ý nghĩa của cái chết và chuẩn bị tinh thần cho sự chết, thì chỉ như sau buổi sáng là buổi tối. Như một lần đi ngủ, như một lần về nhà mà thôi. Ngủ ngon để đón nhận một ngày mai huy hoàng hơn!
“Giữa ánh sáng và tôi, rồi cửa sổ biến mất, và rồi tôi chẳng thấy gì nữa…” Đây là phần cuối một bài thơ của Emily Dickinson, một nhà thơ lớn của nước Mỹ. Văn chương, thần thoại, tranh ảnh nói về cái chết đều liên quan đến đau đớn, tăm tối, sợ hãi, hoặc là tìm kiếm một loại thuốc trường sinh bất lão, dùng các hình tượng như rùa, hạc, tùng, bách để cầu trường thọ, với mục đích tránh cái chết. Sự thật cái chết dường như chỉ tồn tại trong những góc tối và tiêu cực, còn sự sống là ánh sáng, đây là một câu nói hoàn toàn phân đôi, chia sự sống và cái chết thành hai điều khác biệt, giữa chúng không có mối tham chiếu chéo hay mối liên hệ nào.
Chúng ta hoặc sống hoặc chết, và chúng ta một là bám víu vào sự sống, một là phòng thủ cái chết, khi đó, ý nghĩa của cái chết chỉ là sự kết thúc của cuộc sống. Khi chúng ta không dính mắc vào sự tiến thoái lưỡng nan của nhị nguyên này, ý nghĩa của cái chết không chỉ là sự kết thúc của cuộc sống, mà cái chết có thể là ngọn hải đăng của cuộc sống, có cái chết, chúng ta mới biết giá trị của cuộc sống, mới hiển thị được cái quý giá và hoàn chỉnh của sự sống. Giống như ly biệt, chỉ khi đó chúng ta mới biết giá trị của sự gặp gỡ. Vì vậy, thảo luận về cái chết không nên tiêu cực một cách mù quáng, hãy khám phá lại giá trị của cái chết và tìm lại giá trị từ cái chết. Tham thảo về ý nghĩa và giá trị của cuộc sống bao gồm suy nghĩ sâu sắc về ý nghĩa của cái chết.
Nếu chúng ta muốn biết ý nghĩa của cái chết, vậy chúng ta cần nhận thức về cái chết, nhận thức đến từ quan sát cái chết. Cái chết của người khác có thể là trải nghiệm, nhưng không thể trải nghiệm được cái chết của chính mình. Người ta chỉ có thể cảm nhận cái chết từ trí tưởng tượng và giả định, chứ không thể thực sự trải nghiệm cái chết. Vậy những người còn sống trải nghiệm cái chết có thể thông qua các hình thức truyền thống như những nghi lễ gia đình, lễ bái tổ tiên, và nghi lễ đám ma thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày, nhưng đó chỉ là một số lễ tục, không thể kéo gần mối quan hệ giữa chết và sống, không thể làm cho người ta hiểu về cái chết, chấp nhận và đối mặt với cái chết.
Mặt khác, nhận thức cái chết đến từ việc chứng kiến cái chết của người khác, chẳng hạn như thương vong do tai nạn hoặc thảm họa quy mô lớn được đưa tin trên truyền thông, và thậm chí là cái chết của người thân và bạn bè thân thiết. Chúng ta có thể giống như Leo Tolstoy suy tư nhiều về cái chết : cái chết của ông hoàng (André) Andrew trong Chiến Tranh Và Hoà Bình, Anna trong Anna Karenina, Vasilii trong Chủ và Tớ, Master and Man, và bây giờ ý nghĩa của cái chết được đào sâu hơn bao giờ hết trong “The Death of Ivan Ilych” (Cái chết của Ivan Ilych). Cũng như các đồng nghiệp của Ilyich, họ cho rằng “Ông ấy chết, chứ không phải tôi”, điều này sinh ra tâm lý hên xui và cho thấy mặt mù quáng của bản chất con người. Tập phim “Mười điều răn”, lấy cảm hứng từ bản chất của cái chết. Kết quả là chắc chắn, nhưng sự viếng thăm của cái chết là không chắc chắn và không thể đoán trước. Kinh nghiệm về cái chết đã đưa đến nhận thức về sự vô thường của cuộc đời, không biết chết làm sao biết sống? Quan sát và suy nghĩ về cái chết là sự suy tư về trạng thái tồn tại hay sự sống, khẳng định lại và xác định lại giá trị của tồn tại.
Ý nghĩa của cái chết, bởi vì nó có thể quán chiếu sinh mệnh, xét về toàn bộ sinh mệnh, cái chết không phải là một mối đe dọa, mà là một thử thách, đó là sự trưởng thành không ngừng của tinh thần nội tại và sự trưởng thành không ngừng của sinh mệnh, và một giai đoạn trực diện sâu sắc hơn và tích cực hơn của sự sống.
Cái chết là một sức mạnh kiến tạo. Sức mạnh xây dựng này xuất phát từ triết lý tử vong đi học tập triết lý sinh tồn, học tập tinh thần sinh tồn từ thái độ đối mặt với cái chết. Đầu tiên là hiểu về cái chết, phá vỡ những mơ hồ về cái chết, khẳng định rằng cái chết là một phần của cuộc sống, và thậm chí sự sống còn là một quá trình hướng tới cái chết, giống như Martin Heidegger đã nói, “Con người là sự tồn tại hướng tới cái chết”.
Cái chết không ở đâu xa, nó đồng hành cùng ta trong cuộc đời, vì nó có hạn nên hãy trân trọng, hãy coi mỗi ngày như ngày cuối cùng để sống tốt, sống trong sự biết ơn vô hạn, nhắc nhở những ai còn được sống, chỉ sống thôi cũng chưa đủ, phải sống như thế nào để không lãng phí cuộc đời. Hơn nữa, đối mặt với cái chết, xử lý hay tập dượt tâm trạng khi cái chết đến, thái độ này có giá trị tham khảo cho chúng ta sống và làm việc trên cõi đời này. Đầu tiên là thái độ đối phó với những điều chưa biết. Sợ chết bắt nguồn từ việc con người sợ hãi những điều chưa biết sau khi chết. Trên thực tế, cuộc sống cũng có rất nhiều điều chưa biết, và những điều không thể nắm bắt được, chẳng hạn như sợ thất nghiệp, hay sợ hãi và lo lắng về một số vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống, các kỳ thi, phỏng vấn, v.v. Càng sợ chết bao nhiêu thì chúng ta càng nghi ngờ và sợ hãi về cuộc sống bấy nhiêu. Những xáo trộn thế tục cản trở chúng ta thực sự tận hưởng cuộc sống. Mỗi người có những cách khác nhau để đối phó với những điều chưa biết. Đối phó với những điều chưa biết về cái chết có thể được chuyển hoá thành một triết lý sinh tồn.
Ngoài ra, con người không sẵn sàng đối mặt với cái chết vì họ bị ám ảnh bởi thực tế, cố chấp vào cái “tôi”, không thể từ bỏ những thứ thuộc về mình như danh lợi, cảm tình, hưởng thụ. Đối mặt với cái chết, Dominique Bauby trong “The Diving Bell and the Butterfly” (Chuông lặn và chú bướm) tả lại một cách tận hưởng từng chi tiết của cuộc sống, chẳng hạn như khi tắm, anh luôn mang theo một ly rượu whisky và một cuốn sách hay để tắm, nhưng sau khi bị liệt, anh ta phải để y tá tắm rửa “Nhớ lại những ngày hạnh phúc đó thật tàn nhẫn. May mắn thay, tôi không có thời gian để chui sâu vào đầu nhọn của chiếc sừng bò, đi vào bế tắc”. cũng giống như phương pháp “ngồi và quên” của Trang Tử. Đối với thế giới thực, những lợi ích, được và mất, hưởng thụ sự lãng quên, và những rắc rối và nhu cầu hão huyền được pha loãng, để tinh thần được thoải mái và tự do.
Mẹ lão PP là một minh chứng. Cụ thọ 102 tuổi, nhưng bước vào tuổi 99, cụ đã bắt đầu dần dần quên đi mọi sự việc, mọi con người, thậm chí tất cả những người thân của cụ. Đây là một bước tiến triển tốt nhất để sẵn sàng đi đến tiếp nhận cái chết. Buông bỏ mọi thứ, quên đi mọi thứ, để thong dong nhẹ nhõm lên đường. Không vướng mắc, không lưu luyến, không đau buồn. Khi giây phút chia tay cuối cùng với mẹ, mẹ nhìn con thấu suốt, đôi mắt trong suốt như một đứa trẻ thơ dại, không hồi hộp, không lưu luyến, không tiếc nối, không một gợn buồn đau. Chỉ thấy mọi thứ như hư không, hoà vào vũ trụ sâu vời vợi. Đây chính là một trạng thái đẹp đẽ nhất để đón nhận cái chết.
Cùng sự biến hoá của tự nhiên, tiêu giao giữa đất trời và mãn ý. Chúng ta phải hoàn tất dục vọng vô hạn trong khoảng thời gian có hạn. Vô hạn truy cầu, gồm những truy cầu những thứ cho sinh mệnh, chỉ là một sự hoang tưởng, chỉ tăng thêm nỗi đau khổ cho con người. Bỏ đi sự câu nệ, để sinh mệnh bay lên trong khoảng thời gian có hạn. Hơn nữa, cái chết là cái chết vật chất, cái chết vật chất sẽ không ảnh hưởng đến sự tồn tại của tinh thần bất tử, chúng ta phải hiểu rằng cái chết là sự biến mất của hình thể, để theo đuổi trí tuệ của sự bất tử tinh thần, theo đuổi trí tuệ tử vong vĩnh hằng.
Ý nghĩa của cái chết là gì? Ý nghĩa của cái chết liên quan đến cuộc sống như thế nào?
Từ góc độ chức năng của cái chết, bản chất cá nhân và bí ẩn của cái chết kích thích trí tưởng tượng của con người và tạo ra nhiều tác phẩm nghệ thuật. Cái chết cũng là một khởi đầu mới của vòng đời, chỉ có hoa rụng thì mới kết trái. Nhưng quan trọng nhất, cái chết kỳ thực là một sự nắm bắt mới sự sống. Tất nhiên, chúng ta không thể nắm bắt được sự đến của cái chết, cũng như không thể nắm bắt được tình hình sau khi chết, điều chúng ta có thể nắm bắt được là tính tất yếu của cái chết và thái độ đối với nó.
Thông qua hiểu biết triệt để về cái chết, chúng ta biết được phương hướng của sự sống. Hiểu biết cái chết là cơ hội để chúng ta tập trung trở lại vào cuộc sống, từ đó chúng ta tìm lại giá trị của sự tồn tại. Quan sát và suy nghĩ về cái chết là sự phản ánh về trạng thái tồn tại hoặc cuộc sống. Do đó, cái chết là một sức mạnh xây dựng cho cuộc sống, và từ triết lý của cái chết, chúng ta học được sự tồn tại từ triết lý của sự sống.
Sống mà chẳng có ích lợi gì cho đời thì cũng như chết. Những người có trí tuệ, có tu dưỡng và tu tâm tích đức khi chết năng lượng của họ ở trên một tầng không gian riêng biệt. Còn những kẻ ngu hèn tồi tệ sống tự tư tự lợi gieo hoạ cho nhân gian bị dồn vào một tầng khác như nước giếng không được chung cùng biển cả. Các bạn cứ hình dung tần số vô tuyến điện phân chia ra nhiều cung bậc thế nào thì năng lượng của chúng ta sẽ phân chia quy tụ như vậy. Nhận thức rõ cái chết để chúng ta gạt bỏ cái xấu và sống cao thượng hơn, có ích cho xã hội hơn. Và bay lên cùng lão PP ở một tầng năng lượng xứng đáng hơn để cùng hưởng thụ “cuộc sống” sau cái chết!
Peter Pho