TRẢ ƠN CHA MẸ RA SAO ĐÚNG CHÁNH-PHÁP?
Soạn-giả Pram Nguyễn
28/2/2020
____________________________
Câu hỏi nhức-nhối nầy không phải dễ dàng trả lời, vì sao? – Có nhiều người nói Đạo Phật là Đạo Hiếu, cho nên phải vâng nghe lời Cha Mẹ dạy, mặc dù mình biết là sai, thấy chó bảo ngựa, thấy mèo nói cọp vẫn phải tuân theo mới gọi là hiếu tử. Nếu Đạo Hiếu của con người còn làm không được thì tu nổi gì? Lại có câu, “tu đâu không bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là Đạo con”. Vậy theo ông thì trả ơn hai đấng sanh thành ra sao mới gọi là đúng Chánh-Pháp?
Các bạn đã dùng những lời như vậy làm ngặt ngu nầy, chớ phải đâu là học hỏi!
Hai chữ Chánh-Pháp, ở đây, ngu nầy cần phải minh-định trước. Có làm như vậy thì khi đọc các bạn sẽ không có thắc-mắc hay vấn-vương với sở-học của mình, mà không dám mở lòng nghe lời khuyên-nhủ của ngu nầy.
Ngu nầy không muốn thấy những kẻ thế-trí biện-thông vịn vào những lời thô-thiển trong việc nầy mà dùng chiêu CUỠNG TỪ ĐOẠT LÝ để BẺ CONG CHÁNH-PHÁP của thập phương tam thế Phật. Cưỡng-từ là dùng lời của ngu nầy, nói theo cái lý điên-rồ của họ, dựa vào tư-kiến, tư-dục và phiền-não giới để chống phá.
Chánh-Pháp của Như-Lai Thích-Ca Mưu-Ni Thế-Tôn chia thành 5 Thừa 9 Giáo, 8 Bộ Chúng bình-đẳng đồng hưởng theo căn tánh của mình.
Ngũ Thừa là
1) Nhân-Thừa,
2) Thiên-Thừa,
3) Thanh-Văn Thừa,
4) Duyên Giác Thừa và
5) Đại Thừa. Ở Thừa nầy chia thành Tiệm Đốn, Quyền Thiệt, Thỉ Chung, và Kim-Cang. Nói chung gọi là Bát-Nhã Thừa hay Hiển-Giáo.
Khi tu tập tốt về Hiển Giáo, rành Tánh, Tướng, Không, Vô-Tướng, Vô Nguyện, Niệm Phật tam-Muội, v.v… thì có thể vào Kim-cang Đạo tức các chi Thừa của Mật-Giáo.
Khoảng giữa Hiển-Giáo và Mật-Giáo rất khó vượt qua, đa số lạc vào tà-kiến!
Mật-Giáo chính là Kim-Cang Đại-Thừa Giáo chia thành Sự, Tác, Du-Già và Tối-Thượng Du-Già. Nơi Tối-Thượng Du-già lại phân chia thành Phụ, Mẫu, Vô-Nhị và Câu-Sanh Khởi Thừa. Nói chung chỉ là Nhứt-Thừa tức Phật-Thừa.
CHA MẸ CỦA PHÀM-PHU LÀ AI?
______________________________
Thường thì Nhân-Thiên nhị Thừa nầy có thể tóm trong vài lời:
1) Quy-y Tam-bảo
2) Thọ-trì Ngũ Giới
3) Hành Thập Thiện lìa Thập Ác
Nhân-Thiên hai Thừa nầy không dạy người tu chứng Thánh-quả Sa-môn hay nhập Bồ-Tát Địa.
Câu hỏi TRẢ ƠN CHA MẸ RA SAO ĐÚNG CHÁNH-PHÁP ở trên thuộc về Nhân-Thừa.
Những người tu theo Nhân-Thừa chưa biết Cha Vô-Minh, Mẹ Tham-Ái. Bởi vì họ chấp chặc vào thân nầy do Cha sanh Mẹ dưỡng, nên khi họ về già phải trả ơn.
Những người ngu nầy hoàn-toàn mù tịt về tiền-kiếp, nên không hề biết họ có Cha Mẹ từ vô-lượng vô-biên kiếp về trước.
Lại nữa, những người nầy bị cái học Khổng-Nho nó ám-nhập, không phân biện được Hiếu của Phật-gia và Hiếu của Nho-gia.
Nho-gia chẳng biết đầu mối trước khi sanh ra đời. Vì vậy, cái biết của họ dựa vào tình-hình nhiễu-nhương thời của Khổng-Khâu Tiên-sinh mà tập thành để răn những kẻ cuồng-si, bạo-ngược.
Con người khi nhập thai thì THÂN TRUNG-ẤM TỰ CẦU CHA MẸ. Điều nầy ngoại Đạo mù-tịt.
Vậy Hiếu do đâu mà thành lập? Khi người lập giáo không hề biết tiến trình:
1) trước khi nhập thai,
2) trong khi nhập thai và
3) thời-gian thống-khổ khi xuất thai.
Thân Trung-Ấm (Antara bhava) không phải linh-hồn, chẳng phải bóng ma mà người đời thường nói sai.
KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM, quyển 8, viết: “Dâm-dục phát-triển thành thói quen vì sự giao-hợp trong đó hai người âu-yếm nhau và phát sanh sức nóng kích-thích sự ham- muốn. Chuyện nầy cũng giống như việc chà xát hai tay với nhau.”
“Sức nóng kích-thích sự ham-muốn” gọi là “lửa dục hẩy-hừng”. Do Nghiệp-lực lôi kéo mà Thân Trung-Ấm nhìn thấy lửa dục của Cha-Mẹ mà nhanh chóng tìm đến, cho dù ở rất xa.
Như vậy, Cha Mẹ phàm-phu không hề biết con mình ra sao, trước khi nó nhập thai, lại ôm lòng yêu thương! Kỳ thực, sợi dây liên kết con trai và Mẹ, con gái và Cha là do dục-nhiễm, tội-lỗi lúc vào thai.
1) Trai thấy cùng mẹ giao-hợp nên ghét Cha.
2) Ngược lại, gái thấy cùng Cha giao-hợp nên ghét Mẹ.
3) Còn Huỳnh-môn tức là bê-đê (danh từ phổ-thông ngày nay) thì thấy mình lúc giao-hợp với Cha, lúc cùng Mẹ…
Vậy hiếu-dưỡng với Cha Mẹ là gì? Chẳng qua là cung-hiến những thứ mà Cha, Mẹ cần khi về già, nhứt là tạo ra danh tiếng, sự-nghiệp để đời để Cha Mẹ vui thích.
KINH TÂM-ĐỊA QUÁN viết rõ, người học theo Nhân-Thừa, đọc kỷ ắt hiểu Hiếu Đạo.
Thiện-nam-tử! ƠN CHA MẸ: Cha có “từ-ân”, mẹ có “bi-ân”. Bi-ân của mẹ, nếu Ta ở đời trong một kiếp để nói về ơn ấy cũng không thể hết được. Nay Ta vì các ông nói một ít phần về công ơn ấy để các ông hiểu: Giả-sử có người vì việc phúc-đức, cung-kính, cúng dàng một trăm vị Đại-bà-la-môn tịnh-hạnh, một trăm vị Đại-thần-tiên được năm pháp thần-thông, một trăm người bạn lành, xếp đặt cho các vị ấy ở yên trong nhà thất-bảo rất đẹp, đem trăm nghìn thứ đồ ăn ngon quý, y-phục bằng mọi thứ báu tua rủ các chuỗi ngọc, dựng các phòng xá bằng gỗ chiên-đàn10, trầm-hương, chăn gối, giường nằm trang-nghiêm bằng trăm báu, cùng trăm thứ thuốc thang chữa khỏi các bệnh và nhất tâm cúng-dàng trọn trăm nghìn kiếp, cũng không bằng một niệm để tâm hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng sắc-thân bi-mẫu. Và, theo chỗ cúng dàng hầu hạ ấy, đem so-sánh với công-đức trước thời đến trăm nghìn vạn phần cũng không thể nào xét lường kịp.
Sự thương nhớ con của bi-mẫu ở thế-gian không gì sánh được. Ân ấy đến với con ngay từ khi chưa có hình-hài. Nghĩa là bắt đầu từ khi thụ-thai, trải trong mười tháng, đi đứng, ngồi, nằm, mẹ chịu mọi khổ-não, không thể dùng miệng mà nói hết được. Tuy có những sự dục-lạc, ẩm-thực, y-phục nhưng, mẹ vẫn không sinh tâm ưa thích, mà tâm mẹ chỉ luôn luôn lo nghĩ đến con không quên nhãng.
Hãy tự suy-nghĩ: khi sắp sinh-sản, mẹ âm-thầm chịu đựng mọi khổ, ngày đêm sầu-não. Nhưng, đến lúc lâm-bồn, sự đau-khổ ấy quá đỗi, như trăm nghìn mũi nhọn bâu vào cắt xé, thực không thể nào kể xiết được, có khi đến chết. Sinh nở rồi, mẹ không còn bị khổ-não gì nữa, lúc đó họ hàng thân-thích vui mừng vô tận, cũng như người đàn bà nghèo được ngọc Như-ý. Khi đứa con cất tiếng khóc chào đời, mẹ như là người nghe được âm-nhạc. Mẹ dùng ngực mẹ làm nơi ngủ-nghỉ của con và trên hai đầu gối mẹ, thường thường là nơi chơi giỡn của con. Trong nơi ngực mẹ tuôn ra những dòng sữa như nước suối cam-lộ để nuôi lớn con. Ơn nuôi lớn ấy nhiều hơn trời đất và đức thương-xót ấy rộng lớn không gì sánh được. “Thế-gian, núi non là cao, ơn bi-mẫu còn cao hơn thế – cao hơn cả núi Tu-di. Thế-gian cõi đất là nặng, ơn bi-mẫu còn nặng hơn thế!”
Thoảng-hoặc có con trai, con gái nào BỘI-ÂN, không hiếu-thuận với cha mẹ, làm cho cha mẹ SINH TÂM OÁN-NIỆM, mà mẹ bực-bội, THỐT RA MỘT LỜI NÓI ÁC, tức thời con phải sa-đọa theo lời nói ấy, hoặc vào địa-ngục, hay ngã-quỷ, súc-sinh. Thế-gian, nhanh gì hơn gió dữ, MỘT CHÚT OÁN-NIỆM CỦA CHA MẸ CÒN NHANH HƠN GIÓ ẤY, hết thảy Như-Lai, chư Thiên, Kim-cương cùng các vị Tiên được năm pháp thần-thông… không cứu-hộ được.
Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào theo lời dạy bảo của bi-mẫu và thừa-thuận không trái, thời được chư Thiên hộ-niệm, phúc-lạc vô-tận. Những nam, nữ ấy tức là dòng giống tôn-quý của Thiên, Nhân, hoặc là Bồ-tát vì độ chúng-sinh, hiện làm nam, nữ đem lại lợi-ích cho cha mẹ.
Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào vì báo ơn cha mẹ, suốt một kiếp mỗi ngày ba thời, tự cắt thịt mình để nuôi cha mẹ, cũng chưa trả được công ơn một ngày của cha mẹ. Sở-dĩ thế là sao? – Hết thảy nam, nữ ở trong thai mẹ, miệng nút cuống vú, uống huyết mẹ, khi ra khỏi bào-thai, trước thời ấu-trĩ, uống hết một trăm tám mươi hộc [18 Lít] sữa của mẹ; mẹ được chút vị bổ nào đều cho con cả, ngay đến những y-phục quý tốt cũng đều như thế. Và, dù rằng bị người con ngu-si, xấu-xí đi nữa, tình yêu con của mẹ cũng chỉ là một không hai. Xem như xưa kia, có người đàn bà đi chơi xa tại nước người, bế con lội qua sông Hằng, không ngờ nước sông lên to, chảy mạnh, sức yếu không vượt qua nổi, lại yêu mến con quá, không nỡ rời bỏ con, nên cả hai mẹ con đều chết chìm. Song, bởi sức từ-tâm, thiện-căn ấy, tức thời người mẹ được sinh lên cõi Sắc-cứu-cánh-thiên, làm Đại-Phạm-Vương.
Do nhân-duyên ấy, mẹ có mười đức:
1) Một là, như đại-địa: vì trong thai mẹ là chỗ nương-tựa của con.
2) Hai là, năng-sinh: mẹ phải trải qua mọi sự khổ-não mới sinh được con.
3) Ba là, năng-chính: thường do tay mẹ ve-vuốt, uốn-nắn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân con.
4) Bốn là, dưỡng-dục: mẹ phải theo hợp bốn mùa mà nuôi-nấng con khôn lớn.
5) Năm là, trí-giả: mẹ thường dùng phương-tiện, làm cho con sinh trí-tuệ.
6) Sáu là, trang-nghiêm: mẹ lấy những chuỗi ngọc đẹp trang-sức cho con.
7) Bảy là, an-ẩn: mẹ ôm-ấp con, làm cho con nghỉ-ngơi an-lành.
8) Tám là, giáo-thụ: mẹ dùng phương-tiện khéo dắt-dẫn con.
9) Chín là, giáo-giới: mẹ dùng lời nói lành để con xa-lìa những điều ác.
10) Mười là, cho gia-nghiệp: mẹ thường đem gia-nghiệp giao lại cho con.
Thiện-nam-tử! “Ở thế-gian này gì là rất giàu? gì là rất nghèo? -Bi-mẫu tại đường, là giàu; bi-mẫu bất-tại là nghèo; bi-mẫu còn sống là mặt trời giữa trưa, bi-mẫu mất đi là mặt trời đã lặn; bi-mẫu còn sống là mặt trăng sáng, bi-mẫu mất đi là đêm tối! Thế nên, các ông nên siêng-năng tu-tập về sự hiếu-dưỡng phụ-mẫu thêm, thời như người cúng Phật, phúc-báo ấy và phúc-báo này bằng nhau không khác! Các ông nên báo ơn phụ-mẫu như thế!”
— # —
Ở đây, đức Phật chỉ nói về BI-MẪU, không nói đến những người mẹ tàn độc, nhẫn tâm, ích-kỷ, tham-lam, thiếu học, kém văn-hóa, chẳng biết điều, v.v… không còn nhân-tính.
BI-MẪU phải được hiểu ra sao? – Kinh viết, “thiện-nữ-nhân nào theo lời dạy bảo của bi-mẫu và thừa-thuận không trái” tức là nói người Mẹ nầy biết Phật-Pháp chỉ dạy điều khiến “chư Thiên hộ-niệm, phúc-lạc vô-tận.”
Còn “những nam, nữ ấy tức là dòng giống tôn-quý của Thiên, Nhân, hoặc là Bồ-tát vì độ chúng-sinh, hiện làm nam, nữ đem lại lợi-ích cho cha mẹ”.
Vậy là mối tương-quan của Mẹ và con trong Kinh đã nói rất rõ. Chớ có học theo từ-chương, giảng theo chữ mà quên mất nghĩa.
Tiếc thay, thiên-hạ mênh-mông, vậy mà có ai xứng với hai chữ BI-MẪU?
Tại sao đức Phật không nói về Từ Phụ? – Các Kinh văn khác đã nói, vì khi thuyết Kinh nầy Đại-Vương Tịnh-Phạn của ngài vẫn còn tại thế.
Đức Phật vì răn đe hàng ác nhơn đương thời trong chúng hội mà tuyên-cáo điều nầy trước khi nói về ân-đức của BI-MẪU.
Kinh viết: “Thoảng-hoặc có con trai, con gái nào BỘI-ÂN, KHÔNG HIẾU-THUẬN với cha mẹ, làm cho cha mẹ SINH TÂM OÁN-NIỆM, mà mẹ bực-bội, THỐT RA MỘT LỜI NÓI ÁC, tức thời con phải sa-đọa theo lời nói ấy, hoặc vào địa-ngục, hay ngã-quỷ, súc-sinh. Thế-gian, nhanh gì hơn gió dữ, một chút oán-niệm của cha mẹ còn nhanh hơn gió ấy, hết thảy Như-Lai, chư Thiên, Kim-cương cùng các vị Tiên được năm pháp thần-thông… không cứu-hộ được.”
— # —
BI-MẪU không nói lời ác, trừ phi đứa con nầy BỘI-ÂN, KHÔNG HIẾU-THUẬN. Vì sao? – Vì ngay Cha Mẹ nó mà nó còn VONG ÂN, BỘI NGHĨA, LÀM NGHỊCH thì người khác sẽ ra sao? – Nếu chúng có quyền-lực, danh-vọng lớn, hay của tiền nhiều thì thiên-hạ sẽ đồ-thán vì oan uổng, bị áp-bức, v.v… Do đó, Mẹ phẩn-uất thốt lời ác độc, Quỷ Ma hung hiểm, ác độc theo đó ám nhập vào tâm can, làm chuyện xằng bậy, thương luân bại lý, thì không đọa mới là chuyện lạ.
Nếu không nói lời ác, lỡ ra sau nầy nó
1) KHINH SƯ, DIỆT TỔ,
2) HỦY PHÁ DANH-DỰ CỦA CÁC BẬC CÓ ĐỨC hay
3) PHỈ-BÁNG CHƯ PHẬT, BỒ-TÁT và
4) PHÁ-HỦY, NGỤY TẠO KINH-ĐIỂN CỦA CHƯ PHẬT
thì hậu-quả sẻ là muôn ngàn vô-số kiếp đọa vào Địa-Ngục.
Trãi qua số kiếp dài lâu, mãn nghiệp ra khỏi Địa-Ngục liền rơi vào nẽo Súc-sanh!
Nếu có thành Người thì cũng cà khật cà khùng, điên-điên rồ rồ, đắm chìm trong dục-vọng, lại rơi vào tam Ác-Đạo!
Vì vậy, phải đọc kỷ Kinh văn!
Nếu Cha Mẹ chỉ thấy chó bảo ngựa, thấy mèo nói cọp thì phải dùng lời lẽ nhã-nhặn mà nói chỗ sai trật.
Nếu Cha Mẹ không nghe thì phải bỏ đi. Nếu mình đem Chánh-Trí ra giảng dạy, e rằng gặp sự phản kháng mãnh liệt thì lại làm “nhân” cho Cha Mẹ đọa lạc thì không hay.
Thà là mang tội bất hiếu với thế-nhân, chớ mang lỗi với BỔN-NGHIỆP CỦA MÌNH!
Người Trí không làm theo lời của thế-nhân, đạp trên dư luận mà đi, nhưng luôn tùy-thuận theo sự chỉ dạy của đức Phật, chư Bồ-Tát và các hàng Đại Thiện-Tri-Thức…
Các hàng chư Thiên cõi Tứ Thiên Vương và Tam Thập Tam Thiên gọi chung là Địa Thiên, nên còn ái-ân, giao-hợp như như Vua Chúa thế-gian. Lên đến Trời Dạ-Ma, Đâu-Suất thì không còn dâm-dục như thường nhân… Tuy nhiên, chư Thiên chỉ có hóa-sanh, không sanh từ sản-môn của người Mẹ, không chịu đau khổ như các hài-nhi ở trong loài Người.
CHA MẸ CỦA CHƯ THÁNH NHỊ-THỪA LÀ AI?
__________________________________________
Bậc Thánh-giả Thanh-Văn và Duyên-Giác biết rõ CHA VÔ-MINH, MẸ THAM-ÁI. Chư Thánh Tu-Đà-Hoàn cho đến Tư-Đà-Hàm vẫn còn Cha và Mẹ vì vẫn còn trong Dục Giới, vẫn còn nhục-thân. Đến khi thành A-La-Hán thì có huyễn-thân do Định sanh, không có Cha hay Mẹ!
Hàng Thánh Duyên-Giác cao hơn Thánh A-La-Hán nên việc có huyễn-thân nơi cõi Trời Sắc-Cứu-Cánh quả là cực vi-diệu, thế gian khôngai sánh bằng. Ngay cả, thân-thể của chư Thiên Đao-Lợi, cho đến Tha-Hóa Tự-Tại Thiên còn không sánh kịp thân của chư Duyên-Giác hay Độc-Giác Phật.
CHA MẸ CỦA CHƯ BỒ-TÁT LÀ AI?
_________________________________
Bồ-Tát khác hẳn 2 hạng Nhân, Thiên và hai Thánh-giả Thanh-Văn và Duyên-Giác. Vả lại, Bồ Tát có 3 bực:
A) Những người mới phát tâm tu hành cầu pháp Đại thừa, tu hạnh Bồ Tát, là Bồ Tát mới phát tâm.
B) Những người học đạo Đại thừa đã lâu đời, chứng đặng bực Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng cho đến Thập Địa là bực Bồ Tát tu lâu.
C) Bồ Tát chứng bực Đẳng giác (kề Phật gọi là Bổ xứ Bồ Tát).
Bồ Tát đã từng ở trong vô-lượng A-tăng-kỳ kiếp, hiếu dưỡng cha mẹ, nào là y phục, thức ăn uống, phòng xá, giường chõng cho đến đem cả thân thể xương tủy để cúng dàng cha mẹ, cãm được HUYỄN-THÂN VI-DIỆU.
Nói về Cha-Mẹ của Bồ-Tát, KINH DUY-MA-CẬT SỞ-THUYẾT, Phẩm VIII. Phật Đạo viết:
TRÍ-ĐỘ (PRAJNAPARAMITA) MẸ BỒ-TÁT,
PHƯƠNG-TIỆN (UPAYA) ẤY LÀ CHA,
Điều nầy, chứng-minh rằng Bồ-Tát từ Trí-tuệ Bát-nhã và Phương-tiện sanh ra. Sanh mà không sanh, nên khác với hàng Nhị-Thừa từ Định sanh, và hoàn-toàn khác với đám phàm-phu chướng đầy, trược nặng.
Khi Bồ-Tát nhập thai xuống trần thì vào thai Mẹ an, xuất thai Mẹ cũng không trở ngại, nhưng Bồ-Tát cách Ấm còn Mê, hàng lợi-căn A-La-Hán hay Duyên-Giác cách Ấm còn Muội, huống chi phàm-phu! Khi có các bậc Đại Thiện-Tri-Thức khai-thị thì chư Thanh và chư Bồ-Tát liền nhớ lại tiền kiếp và bổn-nguyên, không cần phải nhọc nhằm học tập đó là do Huệ-lực vậy.
Kinh viết, “BỒ-TÁT THỌ-SANH XỨ NÀO, TẤT-CẢ KỸ-NGHỆ KHÔNG THEO THẦY HỌC, MÀ ĐỀU TỰ-NHIÊN BIẾT. Thế-gian ngoại đạo các khổ-hạnh khó làm, vì giáo-hoá họ, Bồ-Tát ấy cũng thị-hiện đồng hành với họ.
Pháp xuất-thế ấy hay vượt quá pháp thế-gian do vì huệ-lực thành-tựu vậy, hàng chư Thiên và thế-nhơn chẳng bằng được.”
Ai là người có Trí chớ vội nghe lời Cha, Mẹ khi những lời nầy không khế hợp với Giáo-nghĩa Đại-Thừa. Làm sao biết có hợp hay không? Vậy thì Trí-giả phải
1) chuyên học Kinh-điển Đại-Thừa, rồi tư-duy,
2) thường hay Sám-hối, và
3) cầu nguyện được thân-cận, lễ-bái, cúng-dường các bậc chân Thiện-Tri-Thức đã có duyên với mình và chỉ dạy mình phát Bồ-Đề-Tâm từ những kiếp trước.
Người chưa thật sự phát Bồ-Đề-Tâm, quyết không gặp được bậc Thiện-Tri-Thức! Dù có gặp cũng chẳng biết. Có biết cũng khởi tâm khinh-tiện, hủy-báng, trước mặt cung-kính mà sau lưng đặt điều bại-hoại!
Người như vậy gọi là VONG ÂN, pháp đã được ắt sẽ hoại, phước có được ắt sẽ tiêu, … Vì sao? – “Thế-gian, nhanh gì hơn gió dữ, MỘT CHÚT OÁN-NIỆM CỦA CHA MẸ CÒN NHANH HƠN GIÓ ẤY, hết thảy Như-Lai, chư Thiên, Kim-cương cùng các vị Tiên được năm pháp thần-thông… không cứu-hộ được.” huống gì Thiện-Tri-Thức là đấng ban cho chúng ta diệu-pháp
1) Ngộ TỰ TÂM,
2) thấy TÁNH THANH-TỊNH BỔN-NGUYÊN,
3) thành-tựu BỒ-ĐỀ TÂM tối-thượng.
4) Được ĐẠI-LẠC, chứng LÝ VÔ-NHỊ
5) Nhập CẢNH-GIỚI GIẢI-THOÁT BẤT-KHẢ-TƯ-NGHỊ
6) Chứng NGŨ CHỦNG PHÁP-THÂN.
7) THẬP LỰC, THẬP PHÁP BẤT CỘNG, TỨ VÔ-NGẠI TRÍ
đầy đủ
8) V.V…
— hết —
Xem thêm: LỤC THÂN QUYẾN-THUỘC SỢI DÂY RÀNG BUỘC!
https://www.facebook.com/pram.nguyen.7/posts/118886093025634
Lan Thu Mẹ của con trước đây tu mật tông, trì thần chú Mani, sau tu Niệm Phật, đọc câu hồng danh muôn đức tức lục tự Di Đà. Bản thân mẹ của con ngủ nghỉ rất ít khi thấy mộng, thường là thẳng giấc một mạch tới sáng. Nhưng có hai lần xảy ra hiện tượng khiến con ghi nhớ:
1) có lần mẹ trì chú, con cảm nhận không gian thanh tịnh vô cùng dễ chịu, đầu óc đang đau nhức thì như có luồng năng lượng thanh tịch “xộc” thẳng vào, vô cùng sảng khoái.
2) lần khác, lúc này mẹ con chuyên tu Niệm Phật, con cũng kinh nghiệm về năng lượng thanh tịnh ấy tràn ngập khắp phòng, khi mẹ bước vào lúc vừa công phu xong. Tinh thần mệt mỏi được năng lượng ấy nâng đỡ, làm cho thăng hoa phấn chấn rõ rệt.
Khi công phu Niệm Phật chuyên tâm hơn, tuy chưa được nhất tâm, mà mẹ con cũng từng kinh nghiệm đi đường gặp thời tiết bất lợi mà cứ mỗi khi sắp bất lợi thì đều vượt qua một cách may mắn, như được long thần trợ giúp vậy. Từ đó tín tâm mạnh mẽ hơn trước. Bây giờ, gia đình con Phật hóa gần xong, còn mỗi cậu em rể thì chỉ thích làm từ thiện, kinh doanh, hoàn toàn không hướng tâm về Phật pháp.