Chúng-sanh giới sao gọi bất-khả-tư-nghì?
Soạn giả Pram Nguyễn
22/2/2020
——————————
Chúng-sanh (sattva) là một thuật-ngữ đặc-biệt và có nhiều ý-nghĩa khác nhau. Ở đây ngu nầy không dám luận bàn nghĩa bí-mật sâu thẩm mà chỉ nói phớt qua chúng-sanh giới và nghiệp-giới.
Những câu nói đầu môi chót lưỡi của người tu ngày nay là:
1) Chúng-sanh vô-biên thệ nguyện độ.
2) Hồi-hướng con và chúng-sanh đồng thành Phật-Đạo.
3) Vân vân.
Chúng-sanh vô-biên sao lấy nhục-thân mà độ hết?
“Con” là tự thân, chưa phát Bồ-Đề Tâm hay phát Tâm Vô-Thượng Bồ-Đề, chưa thể khống chế được bản ngã. Khi “chúng-sanh” nói lời trái ý nghịch lòng, làm điều không thuận theo bản-ngã của mình thì nguyện và hồi-hướng kia không cánh mà bay mất, để lại ngọn lửa hẩy-hừng của sự bực-tức, oán giận trong lòng!
Vậy phải hiểu “chúng-sanh giới” như thế nào?
Kinh viết,
Tôn-giả Xá-Lợi-Phất hỏi: “Bạch Đại-Sĩ! Ngang chừng nào gọi là chúng-sanh giới”?
Vô-Tận Ý Bồ-Tát nói: “Thưa Tôn-giả Xá-Lợi-Phất! Bao nhiêu địa giới, thủy giới, hoả giới và phong giới, lượng ấy vô-biên mà còn chẳng nhiều hơn chúng-sanh giới”.
Tôn-giả Xá-Lợi-Phất nói: “Bạch Đại-Sĩ! Chừng có thể nói ví dụ, so-sánh được chăng?”.
Vô-Tận Ý Bồ-Tát nói: “Thưa Tôn-giả Xá-Lợi-Phất! Nói được, chỉ chẳng được dùng việc nhỏ để ví dụ. Phương Đông, cách đây trọn một hằng-hà-sa số thế-giới chư Phật, Nam, Tây, Bắc, cùng bốn hướng và thượng hạ phương tất-cả đều một hằng-hà-sa số thế-giới chư Phật.
1) Mười phương thế-giới ấy chung làm thành một biển lớn đầy nước.
2) Khiến một hằng-hà-sa số chúng-sanh đồng tụ họp cầm một phần trăm của một sợi lông chẻ ra đồng chấm lấy giọt nước biển ấy.
3) Một lần chấm nước biển ấy là một hằng-hà-sa số giọt, nhẫn đến chấm lấy hết nước biển lớn ấy.
4) Như vậy, vẫn còn chưa hết số chúng-sanh giới.
Từ tâm của Bồ-Tát đều có thể che trùm hết chúng-sanh như vậy.
———— # ————-
Khi học Kinh phải hiểu thuật-ngữ, nếu không là đọc phớt, đọc cho có lâu ngày thành tà-kiến. Ví dụ, “một hằng-hà-sa số” (ganganaivalukopama) theo nghĩa thông thường là số cát từ thượng nguồn tận đến hạ nguồn của sông Hằng (Ganges).
Con số nầy khó mà tính đếm, nhưng có thể ước lược bằng cách vùng và đào xuống cho đến khi đụng đá ngầm thì tính số lượng, sau đó tính toàn thể bờ cát của sông hằng. Theo các Kỷ-sư thì con số hơn hoặc ít 20% vẫn coi là ước lượng khả thi.
Các học giả, các vị Tiến-sĩ Phật-học xưa nay tính một a-tăng-kỳ là 10^^47 tức là 10 lủy thừa 47. Con số nầy có đúng không?
Ngài Xá-Lợi-Phất là bậc đại trí của hàng Thanh-Văn mà còn ngẫn-ngơ trước Đại Từ của chư Bồ-Tát, huống chi là phàm-phu ngu-muội.
Khi đọc Kinh Hoa-Nghiêm, Phẩm Hoa-Tạng Trang-Nghiêm Thế-Giới-Hải và Phẩm A-Tăng-Kỳ thì có thuật-ngữ “hằng-hà-sa số”. Hằng-hà-sa số ở đây tương đương với a-tăng-kỳ (Asankhya).
Theo tính toán của ngu nầy thì 1 hằng-hà-sa số hay một a-tăng-kỳ theo nghĩa của đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni Thế-Tôn giảng phải là một con số mà trí phàm không thể nào với tới đó là
10^^315.412.678.382.193.569.670.705.078.368.256.
Ai cố tìm hiểu, bỏ ra suốt đời tìm lý giải nơi Toán-học, ắt phát cuồng si! Vì sao? – Vì con số lớn nhứt của khoa học là 1 google tức 10^^100, sau số đó họ không tính được. Nhưng ở đây, ngu nầy xin hiến một cách lý giải khác trợ giúp các bạn.
Vào năm 2018, một máy siêu vi-tính (200 petaflops, hay 200,000 teraflops) ra đời tại Hoa-Kỳ, máy nầy có khả năng tính trong 1 giây bằng toàn-thể 6,3 tỉ người tính-toán cùng một 24/7/365, trải qua 6,3 tỉ năm nhân-thế. Vậy có ai biết chưa?
Nếu đem so với Nhứt-thiết Trí (Sarvajnana) của chư Phật Thế-Tôn thì chẳng qua chỉ là đem 1 vi-trần so với thái-hư!
Vì vậy, Tứ Vô-Lượng Tâm của đức Phật tuyên-thuyết cho hàng Đại-Thừa, thật khó nghỉ, khó bàn, khó tư-suy, khó thông-đạt, chớ không phải Tứ Vô-Lượng Tâm mà hàng tiểu Thánh A-La-Hán như ngài Xá-Lợi-Phất đã chứng. Vì sao? – Vì tâm cạn hẹp của chư A-La-Hán thường
1) khiếp sợ chúng-sanh giới,
2) kinh-hải trước nghiệp giới, và
3) khiếp-nhược trước sự tu-hành dài lâu trải qua 3 đại a-tăng-kỳ kiếp số của chư Bồ-Tát và chư Phật Thế-Tôn.
Nguyện ai đọc những hàng chữ nầy mà không kinh-hoàng hoảng-hốt thì tự biết mình đã từng cúng dường không phải một vị Phật mà hàng trăm, hàng ngàn và thiện-căn ắt sắp thành thục, có thể phát Tâm Bồ-Đề, và mau chóng vượt qua Tam-giới ô-trược, sanh về cõi Phật thanh-tịnh.
Ai không tin thì tự biết trí mình còn kém, huệ còn khuyết, phải năng sám-hối và tìm cầu chân Thiện-Tri-Thức mà học hỏi.
Nhưng khốn thay! Làm sao biết ai là Thiện-Tri-Thức trong thời buổi Đấu-Tranh Kiên-Cố nầy?
Thực ra, chỉ có hàng Sơ Hoan-Hỷ Địa Bồ-Tát mới có khả năng nhận ra ai là Thiện-Tri-Thức.
Ngay đến ngài Thiện-Tài Đồng-tử còn phải được sự truyền tay từ một vị Thiện-Tri-Thức nầy đến một vị khác. Còn những người xuất gia hay hàng cư-sĩ nhan nhản ngày nay có bằng ngài chưa mà dám cống-cao ngã-mạn, mục thị vô nhơn, học lóm nghe lén chút đỉnh đã tự cho là mình cao cao tại thượng!
Kinh Hoa-Nghiêm, viết,
“Chư Phật tử! ĐẠI BỒ TÁT TRỤ BỰC SƠ ĐỊA PHẢI ĐẾN CHỖ CHƯ PHẬT, BỒ TÁT, THIỆN-TRI-THỨC TÌM CẦU THƯA HỎI.
Ở trong địa này, từ nơi tướng và đắc quả không nhàm đủ, vì muốn thành tựu pháp của trí địa này.
Lại cũng phải đến chỗ Phật, Bồ Tát, Thiện-Tri-Thức tìm cầu thưa hỏi tướng và đắc quả của Nhị địa, Tam địa nhẫn đến Thập địa không nhàm đủ, vì muốn thành tựu pháp của các trí địa đó.
Bồ Tát này khéo biết trong các trí địa: Chướng và đối trị, địa thành hay hoại, địa tướng và quả; cũng biết rõ địa đắc tu, địa pháp thanh tịnh, địa tiến tu lên, phải địa chẳng phải địa, trí thù thắng của các địa, bất thối chuyển của các địa. Cũng khéo biết thanh tịnh tu trị tất cả trí địa, nhẫn đến chuyển vào Như Lai địa.
Chư Phật tử! Bồ tát khéo biết địa tướng như vậy. Ban đầu ở bực Sơ địa phát khởi tu hành không gián-đoạn, nhẫn đến nhập bực Thập địa không gián đoạn.”
— hết —