Chữa Bệnh Theo Tượng Số Chu Dịch
Tôi bất kể học gì thuộc Đông Phương Học cũng đều tự học, trừ học chữ thì có thầy. Vì phải tự học nên cái gì tôi cũng học từ cái gốc của nó như Phật Đạo hay các môn Bói Toán, Thuật Số… bởi cái gì tôi không hiểu thì không thể nhớ, dù có đơn giản đến đâu. Tôi không để ý cái ngọn như đại đa số những người khác, nên học vẹt nói vẹt tôi không làm được. Do đó, nói về Tượng Số tôi xin trích lại một đoạn trong sách Mai Hoa Dịch Số của tôi để mọi người dễ tiếp nhận. Tôi đã viết xong nhưng chưa hoàn tất như ý mình muốn và dù có hoàn tất cũng sẽ không bán trừ quyển viết bằng tiếng Anh thì tương lai chắc sẽ bán.
Lời Cảnh Sách
Tôi thuở nhỏ tính khí nóng nảy, táo gấp, ngông cuồng, xem trời bằng vung, chẳng kiêng nể trời đất, xem người như cỏ rác. Thích làm theo ý mình, không tuân phục bất kỳ ai, nên cái chi cũng tự học chẳng có Thầy, ngoại trừ học chữ ở trường. Tôi sỡ dĩ lận đận trong đời sống thường nhật, tình cảm, gia đạo, tiền bạc, cơ nghiệp và học thuật là do bởi tính khí ấy, nghĩ lại mà tự xấu hổ chẳng thể kể xiết. May thay, sau tôi nhờ Phật Pháp nhiệm mầu, đã nhận ra được sai lầm, từ đó đến nay luôn cố gắng sửa lấy mình; song do tập khí xấu xa sâu dày nên không thể dứt đặng. Nay nói ra để răn đe các hậu học. Tôi chẳng dám làm Thầy ai nhưng kẻ nào nhận là học trò tôi mà tính khí ngông cuồng cao ngạo, khen mình chê người, tự cao tự đại, không biết nhún nhường khiêm hạ, thì kẻ đó dù có học suốt đời cũng chẳng học được gì vì thiếu TÂM THUẬT, ngoài học được một chút tiểu xảo vặt vãnh mà thôi, nếu càng học sẽ thành BỆNH, có thể đi đến Cuồng Loạn. Những kẻ ấy KHÔNG ĐÁNG LÀM HỌC TRÒ TA!
Nhớ lúc xưa chưa rành các khoa Bói Thuật khi ra làm ăn cũng lên chùa xin Xăm Quán Âm, xin Xăm 5 lần, 3 lần giống nhau đều bảo, “bỏ tiền ra như mò trăng đáy nước”; hai lần nữa bảo, “bỏ tiền ra như vất xuống giếng” cũng đồng ý nghĩa. Tôi vẫn còn có lòng nghi ngờ, khấn nguyện xin lần nữa xem có đúng như vậy không? Xăm bảo, “đã không tin thì còn hỏi nữa làm gì”! Tôi thôi không hỏi nữa, nhưng về vẫn làm và đã thất bại đúng y như lời 5 quẻ Xăm đã nói.
Sau tôi kính nể Tam Bảo, một lòng tin tưởng bất tư nghì, những lời dạy từ đó luôn cho là khuôn vàng thước ngọc. Sông biển bể dâu có thể đổi vời nhưng lòng tin của tôi đối với Tam Bảo không bao giờ thay đổi, vì đó là những lời Như Như luôn đúng trong ba thời Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai, không bao giờ khác được! Song, chẳng vì vậy mà tôi dám xem thường các Đạo khác. Đối với Thánh Nhân về Bói Thuật thì tôi cũng tin tưởng tuyệt đối, nhưng vì là Pháp Thế Gian nên vẫn luôn phấn đấu để thay đổi, hoặc hoàn thiện, hay làm rõ những điều chưa được rõ!
Nhớ xưa khi nghiên cứu Dịch, học vẹt hiểu vịt, hiểu theo người đi trước; người trước không nói thì không hiểu, tức là cái hiểu góp nhặt, đúc khuôn, đóng khung, chết cứng, trái với Tinh Thần Dịch Lý. Vì Dịch là biến dịch từng phút từng giây từ Bất Dịch, Giao Dịch, Biến Dịch rồi hoàn lại Bất Dịch. Thế nhưng vì tôi đầu óc vốn Ngu Muội làm sao một ngày hai bữa có thể hiểu thấu được cái học của Thánh Nhân, nên ngày đêm cố gắng học và hành đúng theo những gì đã được để lại. Cho đến một ngày kia khi thuần thạo các phép tắc, và sau nhiều chục năm thực hành nhuần nhuyễn, bỗng dưng tôi vỡ ra được nhiều lẽ huyền vi mà người không chịu khó thực tập hằng ngày không cách nào có thể thấy được!
Nay vì lòng trắc ẩn, hiểu được sự khó nhọc tự học của mình, nên viết lại vài điều sở học chỉ mong giúp ích cho các hậu học không có Thầy để đỡ phải lao tâm khổ tứ như tôi lúc trẻ, được vậy đã là mãn nguyện lắm rồi, tôi không dám mong cầu gì hơn.
Sách này dựa theo Mai Hoa của Thầy Thiệu Khang Tiết phối hợp với những thực học sở chứng của tôi mà làm ra, nên nếu ai đã từng nghiên cứu qua Mai Hoa xin đừng lấy làm ngạc nhiên, sao lại có điểm khác đến thế. Dịch là tùy thời mà biến dịch, tùy thời mà phát minh nghĩa lý, cho phù hợp với thời đại đó thôi!
Hoàng Quý Sơn
New Orleans ngày Nhâm Dần tháng Canh Tí năm Tân Mão (13/12/2011 8:37 sáng)
CHƯƠNG I
Mai Hoa Dịch Số được dựng lập từ Quái Số của Phục Hy tức là Tiên Thiên Dịch Số, gồm cả Ngũ Hành, Quái Khí, Thiên Can, và 12 Địa Chi.
PHỤC HY QUÁI SỐ:
☰ 乾 CÀN (1); ☱ 兌 ĐOÀI (2); ☲ 離 LI (3); ☳ 震 CHẤN (4)
☴ 巽 TỐN (5); ☵ 坎 KHẢM (6); ☶ 艮 CẤN (7); ☷ 坤 KHÔN (8)
NGŨ HÀNH SINH KHẮC:
Thứ tự của ngũ hành tương sinh như sau:
Mộc sinh hoả
Hoả sinh thổ
Thổ sinh kim
Kim sinh thuỷ
Thuỷ sinh mộc
Nói một cách nôm na cho dễ hiểu là: Cây chụm Lửa; Lửa tàn thành tro, thành Đất; Đất sinh các mỏ vàng, bạc, sắt…; Kim loại chảy ra thì thành Nước.
Ngũ hành không những có quan hệ “tương sinh” thúc đẩy lẫn nhau, nương tựa nhau để tồn tại mà còn có quan hệ trói buộc lẫn nhau, chế ngự lẫn nhau. Mối quan hệ như thế gọi là “tương khắc”, “tương khắc” được căn cứ vào thuộc tính cơ bản của 5 loại vật chất cùng với sự khác biệt để xác định.
Thứ tự của ngũ hành tương khắc như sau:
Kim khắc mộc
Mộc khắc thổ
Thổ khắc thuỷ
Thuỷ khắc hoả
Hoả khắc kim
Nói một cách nôm na cho dễ hiểu là: Búa Riều thì cắt Cây; cây mọc lên làm đất lỡ; Đất hút Nước; Nước dập tắt Lửa; Lửa đốt Kim loại chảy thành nước. (Xem hình thuyết minh 1A phía dưới)
TÁM CUNG THUỘC NGŨ HÀNH (Bát cung sở thuộc ngũ hành)
Cung “Càn” 1, Cung “Đoài” 2: Kim
Cung “Ly” 3: Hoả
Cung “Chấn” 4, Cung “Tốn” 5: Mộc
Cung “Khảm” 6: Thuỷ
Cung “Cấn” 7, Cung “Khôn” 8: Thổ
(Cần xem các photo ở dưới để hiểu rõ ràng hơn)
===============
Đem lý thuyết vào thực hành đầu tiên do hai bác sĩ Lý Ngọc Sơn và Lý Kiện Dân, ở đây tôi xin đơn giản hóa và trình bày theo Dịch Tượng khác hơn hai vị ấy để mọi người tự hiểu và có thể tự tìm thuốc cho mình.
I. ☰ 乾 CÀN (1): Số 1 Dương Kim chủ đầu, sọ, vùng ngực, tròn, liền lạc, cứng thuộc xương, đại tràng (ruột già), dây chằng…: Nên chi tất cả các bệnh nào có liên quan đến những bộ phận đó thì việc đầu tiên cần phải mang con số 1. Tùy thuộc vào nhiều ít để tăng bao nhiêu con số không (số không là liều lượng thuốc); tùy theo để nó trước sau là do ngũ hành tương sinh tương khác của các con số khác mà lập thành…
Tỷ như nứt sọ thì cần được liền lạc, nên đọc số 10000 mau lành là vì để làm liền sọ đầu. Gãy xương, nứt xương, muốn mau lành cũng thế. Hoặc tại sao bị táo bón đọc 71000 thì đi được ngay vì nó chủ đường ruột, đường ruột không thông la do đại tràng bị nóng, lấy Cấn Thổ hóa Hỏa sinh Kim, đại tràng thịnh vượng thì đại tiện thông…
II. ☱ 兌 ĐOÀI (2): Số 2 Âm Kim chủ miệng, phổi, ruột non, các cơ khớp – chỗ hở, xương sống, sụn, bị thương hay mẻ gãy…: Nên chi tất cả các bệnh có liên quan đến các vùng đó, thì nên có con số 2 để hỗ trợ cụ thể vùng đó.
Tỷ như viêm cuống họng thì cần phải dùng số 206 hay 2060, 200600 là vì tùy thuộc vào mức độ nóng trong cơ thể dùng Kim Thủy sinh trợ phạt Hỏa để hết viêm… Hoặc bi nhảy mũi lại, nghẹt mũi, cảm mạo, cảm lạnh dùng 206 thì liền lành ngay. Vì khi đó ngoài sợ lạnh nhưng trong nóng, thành ra làm cho phổi mạnh hơn Thủy và dùng Thủy chế Hỏa thì hết bệnh, giống như dị ứng mũi vậy đó. Mũi bị dị ứng thường là do Hỏa phạt Kim thái quá, đường ruột nóng hay phổi nóng mà ra, nên chi cần làm cho Kim thịnh, cái gì liên quan đến phổi thì dùng số 2…
Phổi chủ da lông, nên bị dị ứng da là do Phổi bị nóng làm cho da khô ngứa, hoặc do phổi yếu mà ra, khi phổi yếu thì mua đông da thường bị ngứa, gặp trương hợp đó nên đọc 3820, hay 38200, 382000 để làm cho phổi ấm và mạnh lên thì sẽ hết ngứa, còn mùa hè thì dùng số trên. Phổi nóng thì lông xấu, lông mày khô chủ anh em tương tàng, phá sản hao tài, nên mau trị để tránh họa.
III. ☲ 離 LI (3): Số 3 Hỏa chủ mắt, tim, máu huyết, nóng, nhiệt, viêm, bám theo, các vùng rỗng như bụng… Nên chi các bệnh nào thuộc các vùng hay có liên quan đến những tính đó thì phải mang số 3.
Ví như bị phỏng, việc cần nhất là đọc số 3 vì nóng, có thể đọc 003, 0003, hoặc 30, 300, 3000 thì trị phỏng rất hiệu nghiệm và không để lại sẹo. Hoặc mắt bị đau, nhức cũng thế. Trường hợp do táo làm cho mắt khô, mắt nổi cườm thì lại dùng 206, 2060, 200600 để làm cho mát thì nó sẽ hết, nhưng đôi khi lại phải thêm số 4 ở phía cuối để sinh trợ Hỏa vì 4 vẫn giúp cho mắt
IV. ☳ 震 CHẤN (4): Số 4 Dương Mộc chủ gan, chân, bàn chân, đùi, gân… những bộ phận di động liên hồi như mắt (gan tàng huyết khai khiếu ở mắt)…: Nên chi những bệnh nào có liên quan đến những bộ phận đó nên mang con số 4.
Ví như gan bị bệnh do hư tức là suy yếu thì buộc lòng phải dùng 640, 6400, 6040, 60400… để làm cho gan mạnh mẽ lên. Hoặc có khi dùng 650 cũng được. Nhưng nếu gan thực tức là quá mạnh thì bắt buộc phải dùng 820 hoặc 8200, 82000 để mà chế nó, nhưng trường hợp vì Hỏa cường thịnh, Thổ táo khô mà dùng số 8 thì sẽ làm cho phổi càng thế nóng nên phải dùng 206, 2006, 20006, 20060, 200060, 2000600.. tức là mỗi số không là liều lượng thôi tùy theo bản thân mình tự điều chỉnh, vì ngũ hành của mỗi cá nhân đố cha ông thầy thuộc nào biết chính xác bằng mình.
V. ☴ 巽 TỐN (5): Số 5 Âm Mộc chủ mật, tay, đùi, cổ, xương chậu, những bộ phận nào có thể xoay tròn, co giản được như dây chằng, bàn tay và các đốt tay, khuỷu tay, khuỷu chân, xương chậu, cổ, mắt; những chỗ có thể thâm nhập sâu vào trong được như tử cung, lỗ tai…: Nên chi bệnh thuộc những vùng đó nên mang con số 5 để được hỗ trợ.
Ví như cổ, đùi, hay xương chậu đau thì đọc 650. Mộc lại chủ gân Mệnh sinh ra ngày giờ sinh Giáp Ất nhiều quá sẽ dễ bị đau thắt lưng, nhức váng đầu, gân yếu, nên phải dùng 20, 200, 2000… để chế Mộc, nếu như trong Mệnh Mộc Kim tương khắc nhất định khó tránh gân xương bị tổn thương nếu có Hỏa thịnh cùng đến hình khắc Kim thì khó tránh té ngã gãy xương cốt, tay chân… Ví như Mệnh của bé Su Su con của Đồng Vân Anh trong Mệnh toàn Mộc, Kim èo uột mong manh nên xương cốt yếu ớt, gân xương tổn hại, lấy 30 Hỏa để sinh trợ, làm ôn ấm gân xương, cho cửi ngựa (Hỏa) đồ chơi mỗi ngày để giúp cho Hỏa thịnh tiết khí Mộc giúp cho xương được cứng. Có những bệnh không xem số không giúp được, nhưng tôi thời gian đâu xem cho từng người và nếu gặp nghiệp nặng quá cũng không giúp được, đành giúp người có duyên vậy!
VI. ☵ 坎 KHẢM (6): Số 6 Thủy chủ thận (thận khai khiếu ở tai), tai, bàng quang, tinh khí, kinh nguyệt, nước mắt, những chất nước (máu), sụn…: Những bệnh có liên quan đến các vùng đó nên mang số 6 để hổ trợ và tạo ra chất nhờn nếu bị khô cạn, hoặc thiếu hư.
Ví như người thận suy thì phải làm cho thận thủy mạnh lên, phải đọc số 206, 2060, 260, 2600, 6000, 60000, hoặc có khi phải dùng 8206 để số 8 ở đầu cho các số. Thận suy thì tóc sẽ rụng rất nhiều, tính hay dễ lo sợ. Nhưng khi thực tức là quá thịnh thì lại tràn lan tiểu tiện không ngừng cũng bệnh về thận nhưng cần phải đắp đập nên lại phải dùng 80, 802, 820 hay 8020, 80020…
VII. ☶ 艮 CẤN (7): Số 7 Dương Thổ chủ lá mía (vị – lá lách), lưng, che chắn, nhũ hoa của phụ nữ, những bộ phận có hình đầu tròn hay nhọn như đầu gối, cùi chõ, nắm tay… Nên chi những bệnh có liên quan đến các vùng đó cần phải mang con số 7 để được hổ trợ.
Ví như đau lưng, thoát vị đỉa đệm là do các chất sụn trong các đốt xương sống gây ra. Vậy số của lưng là 7, số của xương sống là 2, và số của nước hay chất nhờn là 6 nên tạo thành 72006 hay 720060 là để cho tạo ra chất nhờn và trị cho vùng lưng.
VIII. ☷ 坤 KHÔN (8): Số 8 là Âm Thổ chủ bao tử (tỳ), bụng, đường ruột thit, vùng bụng… Nên chi các bệnh thuộc các vùng đó cần phải mang con số 8 để được hổ trợ.
Những người bao tử yếu, dễ trúng thực, hay nôn mửa, đi xe, máy bay dễ say sóng là do Mộc thịnh Thổ suy yếu thì nên đọc 820, 8020, 8200, 80200 kiệng tỳ ích phế thì sẽ không còn bị nôn ọe và ít nhức đâu khi đi ghe, máy bay, xe, tàu lửa… Khi bị loét bao tử hay bị viêm, đau bụng không chịu được thì cần phải cho chút nước, và bồi bổ Kim cho thịnh để chế Mộc nên đọc số 6438200 là vậy.
Trường hợp giọng khàn đục là do Thổ dày chôn Kim nên đọc số 260, 2060, 20060, 200600… Để tiết thổ, nếu là người phổi khỏe có thể 20605,206050, hay 2006005, 20060050.
Nói chung trên đây là căn bản, là gốc của Dịch Số, người thông minh đọc qua thì liền biết chữa bệnh cho mình, còn người bình thường thì khi thấy có tượng số nào đó để trị bệnh nào đó thì có thể tự biết gia giảm để trị bệnh cho mình. Còn lại những người tệ hơn bình thường thì có đọc cũng như vịt nghe sấm.
Tôi thường nói có 4 loại người:
1. Kẻ học không biết là kẻ ngu (chẳng qua vì không có duyên với việc đó hoặc chưa từng học qua nên có học cũng lâu hoặc chẳng biết)
2. Kẻ học biết là kẻ bình thường (vì ai học mà chẳng biết, chẳng qua vì có chút duyên hay đời trước có học qua chút ít với các thứ đó, nên giờ học thì biết)
3. Kẻ học 1 biết 10 là kẻ thông minh (Chẳng qua đời trước có học về nó nhiều nên giờ học lại mau biết thôi, hay ho gì đâu)
4. Người không học mà biết, hoặc dòm qua thì biết là thiên tài (Chẳng qua vì nhiều đời nhiều kiếp chỉ học và làm có việc đó, nên dòm qua thì biết, hay học 1 năm bằng người ta học cả đời. Thực chất thì cũng chả có gì hay ho, ai làm hoài một cái mà chẳng biết)
Bất kể anh nằm trong trường hợp nào mà không giải thoát được thì vẫn là Vô Minh. Do đó, chúng ta cũng chả có gì phải nể phục ai hay bị mặc cảm, nhưng dĩ nhiên là chúng ta vẫn kính trọng tất cả mọi người. Kẻ được cho là thiên tài có gì hay ho đâu mà xem thường kẻ ngu chứ. Tôi tự hào là tôi có thể học IT chẳng kém con bò tót. Ngu mà biết tu dễ thành Phật. Thông minh mà NGU SI thì cái đó mới tệ, nên Phật mới nói, “kẻ tu ngàn kiếp không ngộ vẫn không sợ mà sợ nhất là bị lầm chấp, tà kiến”, tức là Ngu Si đó. Nên Phật lại nói: “điều đáng tội nghiệp nhất là: con bò không biết nó là con bò”. Tỷ như anh cho rằng, Tử Vi, Tướng Số, Phong Thuỷ, Lên Đồng, Nhập Xác… là cứu cánh cho đời sống của mình vâỵ. Ngu chẳng có vấn đề gì cả, CHẤP CHẶT, TÀ KIẾN không tháo gở được mới là vấn đề vì nó sẽ trói buộc anh hàng ngàn kiếp!
Xem thêm: