Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn
Là người học Phật, không ai là không nghe thấy câu “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Lời kinh đó nguyên văn chữ Hán là “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” xuất hiện trên nhiều bản kinh mà đức Phật đã dạy. Ngoài ra, ta có thể kể đến trong
- Kinh Tứ thập nhị chương, Chương 12 cũng đã có nói đến điều này.
- Kinh Phạm Võng cũng nói: “Nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục”, nghĩa là “Một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được”.
- Kinh Niết Bàn cũng đã nói: “Nhân thân nan đắc như Ưu Đàm hoa” tức là “Thân người khó được như hoa Ưu Ðàm”.
Vì sao đức Thế Tôn lại dạy “thân người khó được”? Chúng ta đã là người rồi, tại sao lại còn khó được. Do đó, ở đây cần phải hiểu rằng khó được không phải là khó cho thân hiện nay mà là khó cho thân mai sau của chúng ta, khi thân đời này không còn nữa thì liệu kiếp sau ta có còn được là thân người nữa hay không, hay lại bị đọa vào các đường ác. Đó là điều ta cần suy nghĩ.
Theo giáo lý của đức Phật: thân con người ta tồn tại trên cuộc đời này chỉ là một giai đoạn rất ngắn ngủi, nhiều lắm chỉ trong khoảng 100 năm so với toàn bộ cuộc sống của người đó từ vô thủy kiếp trước đây và còn mãi mãi về sau này.
Theo giáo lý Mười hai nhân duyên, hết một chu trình tuần hoàn từ thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là quả của đời hiện tại do nhân của đời trước là vô minh và hành gây nên, đến ái, thủ, hữu là nhân của đời hiện tại gây ra quả của đời vị lai và cứ như thế con người phải trải qua vô lượng vô biên kiếp sống. Nhưng những kiếp sống ấy có phải mãi mãi đều là kiếp sống của con người hay không? Không phải là như vậy. đạo Phật đã chỉ ra rằng trong mười cõi giới, có sáu cõi còn trong vòng sinh tử luân hồi hay còn gọi là lục đạo luân hồi, đó là các cõi Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỹ và Địa ngục mà cõi Người và Trời là cõi lành. Chúng sinh trong các cõi sinh tử luân hồi, có chết đi sống lại cũng còn tùy theo nghiệp lực dẫn dắt của các kiếp sống. Con người sau khi chết đi, tùy theo hành động tạo tác trong suốt cuộc đời, gây nên các nghiệp thiện hay ác, sẽ thác sinh vào các cõi khác nhau.
Các nghiệp lực ấy đưa ta vào một trong sáu cõi luân hồi, điều đó lại còn tùy thuộc vào cận tử nghiệp, tức là cái nghiệp xuất hiện trong lúc lâm chung. Đạo Phật cũng chỉ ra rằng có hai loại người có thể đi thẳng tới hai cõi mà không cần phải qua giai đoạn thân trung ấm trong 49 ngày. Đó là loại người gây nhiều tội ác nặng như các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác, thì sau khi chết, bị đọa thẳng vào cõi Địa ngục và thứ hai là những người tạo nhiều nghiệp lành và đủ cơ duyên thì sau khi chết, được vãng sinh vào cõi Cực lạc. Còn lại tất cả mọi con người sau khi chết đi, tùy theo nghiệp lực tạo tác trong đời, có thể tái sinh vào một trong các cõi luân hồi khác là Ngạ quỷ, Súc sinh, A tu la, Người và cõi Trời.
Đạo Phật có nói đến Lục đạo luân hồi, đó là sáu cõi trầm luân của các chúng sinh chưa giải thoát. Một chúng sinh nói chung, hay một con người nói riêng có thể trải qua một trong sáu cõi đó. Trong đó được làm người trong cõi Người là rất quan trọng vì con người có thể có cơ hội tu tập để giải thoát khỏi kiếp sinh tử luân hồi, vì nếu ở trong cõi khác thì không dễ dàng tu tập để giải thoát. Do vậy, con người sau khi chết đi muốn trở lại làm người không phải là dễ.
Trong “Lương Hoàng Bảo Sám” có nói đến bà hoàng hậu của vua Lương Võ Đế (502 – 550) tên là Hy Thị. Vì được vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao, nên bà đã tạo ra nhiều tội ác đến nỗi ai ai cũng biết bà là một “Quái phi”. Vì gây nhiều tôi ác nên khi từ trần bà phải đọa làm thân rắn mãng xà, ngày đêm đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy bị sâu trùng rúc rỉa, nhức nhối không thể chịu được. Trong các chuyện Phật giáo có rất nhiều câu chuyện kể về con người sau khi chết bị đọa vào các đường ác làm thân súc sinh, ngạ quỷ vì trong cuộc sống họ đã gây ra nhiều tội ác.
Trong Từ Bi Thủy Sám Pháp (Quyển Hạ) Phật dạy:
“Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe,
Chúng tăng khó gặp,
Tín tâm khó sinh,
Sáu căn khó đủ,
Bạn tốt khó gặp.
Ngày nay chúng ta nhờ kiếp trước đã gây nhiều căn lành, nên mới được làm thân người, sáu căn đầy đủ, lại gặp bạn lành, được nghe chính pháp. Nếu trong lúc này không hết lòng tinh tiến tu hành, ắt sau này sẽ bị chìm đắm trong muôn ngàn khổ đau không biết ngày nào ra khỏi bởi thế hôm nay, chí thành càu xin sám hối.”
Trong kinh Bách Duyên có ghi câu chuyện khi đức Phật ở vườn tre Ca Lan Đà tại thành Vương Xá, trong thành có một vị trưởng giả tên là Hiền Diện rất giàu có, của báu vô số không thể kể hết, nhưng tính tình xấu xa, tham lam, ghen tị, nịnh hót, không có tâm làm bố thí, ngay đến các loài chim, ông cũng đuổi không cho đến gần nhà mình. Một hôm, có các vị sa môn và Bà la môn nghèo khổ đến nhà ông khất thực, ông dùng những lời độc ác chửi mắng và đuổi đi. Về sau, khi chết, ông bị đọa làm thân rắn, trở lại giữ tài sản.
Cuốn “Thiện ác nghiệp báo” tức “Chư kinh yếu tập” của Pháp sư Đạo Thế đã nêu rất rõ vấn đề này bằng những câu chuyện khác nhau về con người vì tạo nhiều nghiệp ác nên sau khi chết bị đọa vào cõi súc sinh. Vậy, đã là con người thì kiếp sau được trở lại làm thân người không phải là dễ, hay nói khác đi, như Phật đã nói là “thân người khó được”.
Thân người khó được như con rùa mù
Để nói lên điều đó, đức Phật còn dùng một hình ảnh ví như có một con rùa mù nằm dưới đáy biển, cứ một trăm năm mới nổi lên một lần để tìm cách chui đầu vào một cái lỗ trên một khúc cây đang bồng bềnh trôi trên mặt biển. Việc một con rùa mù như thế mà cứ một trăm năm mới nổi lên để đưa đầu vào lỗ cây thật quả là quá hiếm hoi như thế nào? Được làm kiếp người cũng hiếm hoi như vậy. – Kinh rùa mù tìm bọng cây

Tuy nhiên, đức Phật cũng chỉ ra rằng, từ vô thủy đến nay, tất cả chúng sinh không phải chỉ có mặt trên thế gian này một lần mà đã có mặt vô số lần rồi kể từ vô lượng vô biên kiếp trước, vì vậy một chúng sinh có thể là cha, mẹ, là bà con anh em của ta từ trong nhiều kiếp trước. Đức Phật còn dạy mọi con người đều có Phật tính và những người có căn cơ tu hành cao cho tới khi thành Phật đã phải trải qua vô số kiếp. Ngay Đức Thế tôn cũng đã trải qua vô số kiếp tu hành mới thành đạo quả, mới đạt đến Vô thượng, Chánh đẳng, Chánh giác. Vì vậy, con người ta để trở lại kiếp người cũng phải là người có vô lượng kiếp tu hành mới có thể đạt được.
Về mặt khoa học, hiện nay dân số thế giới có khoảng trên 7 tỷ người (theo thống kê ngày 10.4.2011 là 7 tỷ) và đến năm 2040 dự đoán sẽ đạt ngưỡng 9 tỷ người. Số lượng con người trong cõi thế này là con số có thể thống kê được. Nhưng thử hỏi có ai thống kê được số lượng các loài súc sinh trên quả địa cầu này là bao nhiêu không, không thể nào thống kê cho được.
Ta hãy tưởng tượng chỉ trong một ngôi làng nhỏ, số lượng dân trong ngôi làng có thể thống kê biết được, nhưng trong làng đó có bao nhiêu con trâu, bò, dê, chó, mèo, lợn, gà, vịt v.v.., đó mới chỉ là các loại con vật nuôi trong nhà. Nhưng cũng trong ngôi làng đó có ai đếm được có bao nhiêu tổ kiến, tổ ong, và mỗi tổ kiến và tổ ong đó có bao nhiêu con kiến, con ong, và trong làng có bao nhiêu ruồi, muỗi, bọ, rệp, giun, dế…hết thảy chúng cũng đều là súc sinh. Và còn nữa, có ai đếm được trong các ao làng và trên dòng sông chảy qua ngôi làng đó có bao nhiêu loại cá, ốc, lươn, cua ba ba, tôm, chạch v.v… và mỗi loại có bao nhiêu con.
Nhiều không thể nào đếm được. Đấy là chỉ nói trong một ngôi làng. Thế còn trên những dãy núi, trong rừng sâu, ngoài biển cả, trên bầu trời còn có biết bao loài vật như hổ, báo, hươu, nai, gấu, sư tử…, loài thủy sản như cá voi, cá mập, bạch tuộc…, loài sâu bướm cùng các loại chim bay. Thật là nhiều, không thể nào đếm được và những con số tỷ tỷ tỷ cũng không thể nào biểu thị được số lượng súc sinh trên quả đất này. Tóm lại số lượng 7 tỷ con người trong cõi Người thật là quá ít ỏi so với số lượng súc sinh trong cõi Súc sinh. Như vậy chứng tỏ rằng trong thế giới sinh tử luân hồi, được vào cõi Người không phải là dễ, còn đọa vào đường Súc sinh là chuyện có thể sảy ra rất nhiều, do đó đức Phật nói “thân người khó được” là vì thế.
Bây giờ, vấn đề đặt ra là làm thế nào con người ta có thể tái sinh để được lại làm thân người khi kết thúc kiếp người hiện tại. Không có cách nào khác là phải biết tu thân tích đức. Đạo Phật là con đường đưa ta đi đến cõi lành nếu ta biết tu thân. Đạo Phật như một cơn mưa rừng của tự nhiên thấm xuống muôn loài chúng sinh hữu tình. Đạo Phật khuyến khích con người tìm kiếm chân lý trong chính mình thông qua sự tu tập và nuôi dưỡng sự hiểu biết về tự tính của chúng ta. Đạo Phật không phải là một phép màu làm cho ta trở nên tốt nếu ta không chịu tu tập. Đạo Phật là ánh sáng chỉ cho ta con đường tâm linh để phát triển sự hiểu biết, từ đó chuyển hóa nội tâm giúp chúng ta vững bước trên con đường Giác ngộ.
Chúng ta thấy rằng trong sáu cõi luân hồi, cõi Atula gồm những chúng sinh hay giận giữ, lòng sân hận rất lớn, hay gây sự, gây chiến tranh, vì vậy không thể yên ổn để tu hành. Cõi Trời tuy là cõi tốt đẹp nhất trong sáu cõi, những chúng sinh trong cõi Trời do có nhiều phước báu mới được sinh lên trên đó, họ chỉ biết hưởng thụ là chính nên rất khó khởi tâm tu tập.
Dù sống trên cõi Trời hàng trăm, nghìn năm, hay triệu năm, đến khi phúc hết mà không biết tạo dựng điều lành, cũng bị đọa lại vào các cõi thấp, ví như Trư Bát Giới nguyên là Thiên Bồng Nguyên soái ở cõi Trời bị đọa xuống trần gian làm kiếp con lợn trong cõi Súc sinh. Mà cõi Súc sinh là cõi mê mờ, ngu si không có tri thức, không thể học hỏi được bất cứ điều gì.
Duy chỉ có con người là có nhiều cơ hội để phát tâm tu hành giải thoát. Bởi vì con người với cái thân ngũ uẩn có thức uẩn phát triển cao, có lý trí, có tri thức, có nhận thức cao mới có thể tiếp thu được Phật pháp. Như thế đạt được thân người, được làm thân người là điều quí báu không hề dễ dàng gì.
Dù là người xuất gia hay tại gia, con đường duy nhất để tránh được “thân người khó được” là con đường tu thân, tích đức, là thực hiện được những phương pháp tu tập từ đơn giản đến những phương pháp cao siêu hơn. Trên thực tế, có tới 84.000 pháp môn khác nhau đã được đức Phật chỉ dạy cho chúng ta con đường chuyển hóa tâm thức nhằm giải thoát hết thảy chúng sinh hữu tình từ trạng thái đau khổ đến trạng thái giác ngộ.
Tất cả những pháp môn đó, nếu ai được trang bị sẽ có sức mạnh giải thoát cho chính bản thân mình. Bởi vì toàn bộ mục đích của sự thực hành Phật pháp là nhằm giúp con người giải thoát khỏi khổ đau, sự chấp ngã và tất cả những phiền não, nhiễm ô để cuối cùng đạt được giác ngộ.
Đạo Phật dạy chúng ta rằng nếu cứ tham luyến, bám chấp vào cái “ta” hay cái “của ta” thì điều đó sẽ trở thành một dây xích trói chặt ta trong vòng sinh tử luân hồi. Chính con người tự trói buộc chính mình chứ không có cái gì khác trói buộc ta cả.
Và vì vậy, nếu thực hành tu tập tốt, bắt nguồn từ động cơ đúng đắn, dù có trở ngại đến đâu thì ta cũng vẫn an định, bình tĩnh bởi vì ta đã chuẩn bị tinh thần và với phương pháp đúng đắn, với niềm tin sâu sắc và hạnh nguyện đầy đủ để đi đến giác ngộ và ít nhất cũng tạo được nhiều nghiệp lành để tái sinh vào cõi Người.
Điều mà đức Phật dậy “Thân người khó được” nhắc nhở con người chúng ta phải mau mau tỉnh giác và nhận ra con đường đi đến Phật pháp để tự cứu mình, trên đường đi đến bờ Giác ngộ.
Phạm Đình Nhân, Pháp danh Chánh Tuệ Định
Nhìn lại đệ tử xuất gia cửa Phật ngày nay
“Nhơn thân nan đắc, Phật pháp nan văn” (Thân người khó được, Phật pháp khó nghe). Phật pháp quý báu là vì nhờ biết được Phật pháp mà người ta thoát khỏi u mê, không rơi vào nẻo ác, hiện tại có cuộc sống an lạc và cuối cùng là giác ngộ giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thành Phật. Chính vì thế mà người xưa coi Phật pháp quý hơn thân mạng mình. Tiền thân của Đức Phật vì muốn được nghe nửa bài kệ mà chấp nhận bỏ thân mạng, vì muốn được nghe kinh Pháp hoa mà sẵn sàng trọn đời làm sàng tọa hầu hạ cho vị tiên nhơn nói kinh.
Thiền sư S.N.Goenka kể rằng, trước khi biết đến Phật giáo, ông bị chứng nhức đầu kinh niên, chạy chữa khắp các nước tiên tiến trên thế giới mà vẫn không hết. Ông nghe bạn giới thiệu rằng thiền có thể làm hết nhức đầu, bèn tìm đến trung tâm thiền nổi tiếng của Miến Điện do Thiền sư U Ba Khin hướng dẫn. Nhưng Thiền sư U Ba Khin từ chối cho Goenka tham gia khóa thiền vì rằng: “Giáo pháp của Phật cao thượng nhiệm mầu, há chỉ dùng để trị chứng nhức đầu của ông sao?”.
Người xưa đối với việc chọn người học Phật vô cùng nghiêm cẩn như vậy cho nên mới có thành tựu, mới đào tạo được pháp khí cho thiền gia. Ngay từ thời Đức Phật, Ngài đã đưa ra những chuẩn mực ai có thể xuất gia làm Tăng và ai không thể. Luật Ma-ha Tăng-kỳ đề cập 32 điều mà một người không được phép xuất gia, ví dụ như kẻ lừa đảo, phạm ngũ nghịch, nhỏ quá, già quá, bị mù điếc, bị câm què, mắc nợ, bị bệnh, dị dạng…
Đức Phật từ chối cho phép xuất gia đối với những người không đủ điều kiện không phải vì Ngài không từ bi hay không bình đẳng mà vì Ngài không muốn Phật pháp bị hủy hoại bởi những người không đủ khả năng hay tư chất kham nhẫn hành trì giáo pháp. Nếu ai cũng có thể xuất gia thì người đời nhìn vào Tăng đoàn sẽ nói rằng Tăng đoàn Phật giáo đều là hạng người thất tình, thất nghiệp, thất chí hay trại dưỡng lão… Hơn nữa, do không thể hành trì Phật pháp nên họ sẽ có những hành vi sai với Chánh pháp, bị người đời chỉ trích và chán ghét. Và điều này làm cho Phật pháp bị hủy diệt nhanh chóng.
Chúng ta thấy ngày nay nhiều chùa nhận đệ tử xuất gia quá dễ dãi, không có chọn lựa, cân nhắc. Có vị còn cố gắng nhận đệ tử cho nhiều để được danh tiếng, được thập phương bá tánh cúng chùa cho nhiều, chứ không phải vì mục đích đào tạo Tăng/Ni tài, ươm mầm cho Phật pháp. Họ nhận vào cho đông rồi để đó chứ không dạy dỗ gì cả. Cho nên ở chùa lâu năm mà tâm tính và hành vi thì không mấy chuyển hóa: “Tích niên hành xứ, thốn bộ bất di”, cũng tham lam, sân si, gây gổ và ham vui không khác gì người thế gian. Những sự việc không hay xảy ra trong Phật giáo gần đây đều là do những người như thế làm ra. Tôi cho rằng nếu người thầy có trách nhiệm nuôi dạy đệ tử cho đàng hoàng thì những việc đáng tiếc như thế sẽ không thể xảy ra. Bởi vì những người chân chính xuất gia, có tu có học nghiêm túc thì họ sẽ biết thế nào là giới luật và oai nghi, thế nào là bổn phận và phép tắc của Sa-môn. Họ luôn luôn “nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức”. Họ thấy được sự cao quý và khác biệt giữa một Sa-môn và bạn hàng tôm hàng cá. Khi mà ai cũng có thể làm Tăng, bất kể xuất thân, thành phần xã hội, thì chất lượng đương nhiên phải khác rồi.
Chúng ta hãy nhìn cách tu học và hành trì của người xưa:
“Ngũ hạ dĩ tiền chuyên tinh giới luật, ngũ hạ dĩ hậu phương nãi thính giáo tham thiền”.
Nghĩa là năm hạ về trước ròng chuyên giới luật, năm hạ về sau mới cho học giáo lý và tham thiền. Không kể giai đoạn ngũ giới và Sa-di, sau khi thọ giới Tỳ-kheo, vị tân Tỳ-kheo đó phải trải qua năm năm chuyên học và nghiên cứu về giới luật. Sau khi làu thông giới luật rồi thì mới cho học giáo lý và các phương pháp tu tập như tham thiền chẳng hạn. Học giáo lý và tham thiền mà còn phải chậm như vậy hà huống là học các phương tiện ứng phó đạo tràng.
Còn ngày nay chúng ta nuôi dạy đệ tử như thế nào? Mới xuất gia bữa trước thì bữa sau cho thọ giới Sa-di. Rồi ít năm sau cho thọ giới Tỳ-kheo. Có trường hợp còn đặc cách cho thọ cả Sa-di và Tỳ-kheo trong cùng một giới đàn luôn, với lý do là để thuận tiện cho việc tu học và làm Phật sự. Tu học và làm Phật sự gì không thấy nhưng chỉ thấy ăn trên ngồi trước, đi đám cho nhiều và nhận bao thư cho dày. Thọ Tỳ-kheo rồi thì tự thấy mình là “thiên nhơn chi đạo sư”, cái cổ liền bị vôi hóa cứng đơ, gặp Phật tử đáng cha mẹ ông bà mình thì nghênh nghênh tự đắc, không biết cúi đầu chào hỏi. Ngược lại bắt họ phải thưa hỏi đảnh lễ mình. Người như vậy thì làm được gì cho Phật pháp và chúng sinh. Ngày qua tháng lại, “đến lúc tuổi đời đã cao, tuổi hạ cũng lớn mà bụng rỗng tâm cao… chỉ biết một bề kiêu ngạo”.
Tôi biết có một vị thầy nọ. Thầy bị bệnh nặng và sắp qua đời. Mặc dù đang nằm ở bệnh viện nhưng thầy ấy vẫn làm đơn xin Giáo hội tấn phong cho thầy lên Thượng tọa, “coi như tâm nguyện cuối cùng” của thầy. Có lẽ thầy nghĩ rằng như vậy sau này trên long vị của thầy sẽ ghi là Thượng tọa gì đó mới oai, chứ không phải chỉ là Đại đức. Tôi nghe vậy mà thấy ngậm ngùi. Đáng lẽ lúc này là lúc phải một lòng hướng Phật hay để tâm cho tỉnh thức mà an nhiên vào cõi Niết-bàn, sao còn lại nghĩ đến chuyện tấn phong. Những chức danh như Thượng tọa, Hòa thượng do Giáo hội chế định ra như là cách để tôn kính bậc trưởng thượng chứ đâu phải dùng để phân định địa vị và quyền uy cao thấp như hàm cấp ngoài đời. Chuyện này nói ra tuy thật đau lòng, nhưng tu hành như thế thì cũng thật đau khổ.
Tôi có người huynh đệ. Huynh ấy xuất gia 4 năm mới thọ Sa-di và 14 năm sau mới chịu thọ Tỳ-kheo. Thật ra huynh ấy cũng không muốn thọ giới Tỳ-kheo, nhưng vì có nhiều điều bất tiện nên đành phải thọ. Ví dụ như những sư đệ tu sau mà đã là Tỳ-kheo. Lên tụng kinh đứng trước thì không dám, còn đứng sau huynh ấy thì không đúng pháp. Rất khó xử như vậy nên huynh ấy mới chịu thọ Tỳ-kheo. Huynh ấy nói rằng chỉ cần 10 giới thôi tu cả đời cũng không hết, thọ thêm làm chi. Hơn nữa, thọ mà mình giữ không được thì chỉ tội thêm mà thôi. Dĩ nhiên quan niệm này cũng chưa hẳn đúng, nhưng quý ở chỗ biết tự lượng sức mình.
Vừa rồi có một học trò than thở với tôi rằng: “Ở chùa sao ai cũng ghét con”. Tôi nói đó là vì con nổi bật quá. Chùa càng to, sư phụ nổi tiếng, Phật tử nhiều, đạo tràng sung túc, thì càng dễ trở thành nơi cạnh tranh, ganh tỵ. Người học trò ấy nói rằng: “Chẳng lẽ mình không được nổi bật sao, chẳng lẽ chịu thiệt hoài sao?”. Tôi trả lời: “Phải”. Tu là phải chịu thiệt. Khi nào mình còn có cái tâm muốn nổi bật, nổi tiếng thì mình chưa tu gì cả, cái đức mình chưa cao. Ngày xưa chư Tổ vào chùa chỉ lo quét dọn nhà bếp nhà xí mà thành Tổ. Ngày nay mới vô chùa có mấy năm mà không chịu thua ai hết thì biết là đạo lực rất kém cỏi rồi. Mà người nào cũng muốn hơn người khác như vậy thì làm sao không xảy ra chuyện cho được.
Việc hành đạo coi khó mà dễ. Còn yên phận tu hành coi dễ mà khó. Hành đạo dễ là vì nó phù hợp với khuynh hướng hướng ngoại của con người. Hơn nữa, việc hành đạo cũng thỏa mãn con người ta những thứ như danh văn lợi lộc. Cho nên nhập thế, nếu không vững thì sẽ bị thế tục lôi kéo đi luôn. Còn yên phận tu hành khó là vì nó đòi hỏi người ta sự buông bỏ. Mà buông bỏ thì không phải là thói quen của nhiều người. Chỉ có bậc đại hùng đại lực mới có thể buông bỏ hoàn toàn.
Trong tự nhiên có rất nhiều loài cây khác nhau. Có loài cây vài tháng là có quả, có loài vài năm và cũng có loài mười năm trở lên mới cho quả. Cây nào càng cho quả sớm thì tuổi thọ của nó càng ngắn và ngược lại. Nhà tâm lý học Thụy Sĩ Carl Jung nói rằng: “Ngọn cây không thể vươn tới được thiên đàng nếu một phần rễ của nó không cắm ở địa ngục”. Sự sinh trưởng và phát triển của con người há không giống với sự sinh trưởng và phát triển của tự nhiên lắm sao! Cho nên thời gian tu dưỡng là điều rất quan trọng đối với người tu, trước khi… xuống núi. Phật pháp không phải cá ươn mà năn nỉ đem cho. Phật pháp chỉ dành cho người biết trân quý, nhất là người đó phải có khả năng hành trì. Nếu không thì số lượng càng nhiều thì càng làm hại cho Phật pháp mà thôi.
Thích Trung Hữu
Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Tịnh-tông nan tín
Thân người khó được- Một phen mất thân người, vạn kiếp khó được lại- Phật pháp khó gặp. Nay chúng ta được thân người rồi- nên làm thế nào?
“Thân người khó được, Phật khó gặp. Tín huệ nghe pháp khó trong khó”, Niệm Lão chú giải nói, thân người khó được là như phần mở đầu Kinh Phạm Võng nói: “Một phen mất thân người, vạn kiếp khó được lại”. Hai câu nói này, hy vọng mọi người ghi nhớ thật kỹ.
Nay chúng ta có được thân người rồi, quá hiếm có, quá khó được, phải quý trọng, phải sử dụng thật tốt thân người của đời này. Đương nhiên, cứu cánh viên mãn là phải thoát khỏi Lục đạo luân hồi, không làm lại chuyện sanh tử luân hồi nữa, thì quý vị được đại lợi ích rồi.
Có phương pháp nào để thoát luân hồi không? Có.
Tôi có nắm chắc hay không? Có…
Trong kinh, Phật nói với chúng ta, then chốt là một câu sau cùng, một câu sau cùng lúc mạng chung là niệm A Di Đà Phật, thì quyết định vãng sanh… Nếu như không tin, vậy thì quá đáng tiếc rồi, lần tiếp theo được lại thân người, thì khó rồi! Vạn kiếp bất phục, phục là lại đạt được, sau khi trải qua một vạn kiếp, mà không chắc quý vị có duyên phận được lại thân người. Tóm lại, thân người khó được dễ mất, rất dễ dàng mất đi. Nên cần ghi nhớ câu nói này, trong phần mở đầu Kinh Phạm Võng nói: “Một phen mất thân người, vạn kiếp khó được lại”.
Trong Kinh Niết Bàn lại nói: ‘Nhân thân nan đắc, như Ưu Đàm hoa’(Thân người khó được như hoa Ưu Đàm). Người Trung Hoa thường nói hoa Đàm hiếm khi xuất hiện, ở khu vực phương nam có hoa Đàm, khi ở Singapore tôi đã từng thấy qua, thời gian hoa nở rất ngắn, nửa đêm mới nở, sau khi nở khoảng 10 phút thì đã tàn rồi.
Trong Kinh Phạm Võng, đây là Kinh Đại-thừa, Phật vì chúng ta mà nói, sử dụng hoa Ưu Đàm để tỷ dụ thân người khó được, như hoa Ưu Đàm hiếm khi xuất hiện. “Bởi vì, được thân người ít như chút đất trên móng tay, mất thân người nhiều như đất ở đại địa”, đây là trong lúc Phật giảng kinh, cũng thường hay dùng thí dụ này, thí dụ này là Thế Tôn nêu lên khi dạy đệ tử. Làm thí dụ này, hốt một nắm đất ở đất lên tay, rồi mở lòng bàn tay thả xuống lại, dùng đó làm thí dụ. Phật hỏi mọi người, chỉ còn một ít đất, dính lại trên đầu móng tay, đất trên móng tay ta nhiều hay đất ở dưới đất nhiều?
Đương nhiên khi thả xuống đất, thì đất đều rớt xuống đất rồi, dính lại trên móng tay chỉ chút ít. Phật nói: Người được thân người, sau khi mất thân người rồi mà lại được thân người ít giống như đất trên móng tay, còn không được lại thân người thì nhiều như đất dưới đất. Đó là thí dụ.
Cho nên, Phật nan trị, trị là gặp được. Trong phẩm Thọ Lượng, Kinh Pháp Hoa, Phật lại nói:
Tỳ-kheo nên biết: Chư Phật xuất thế khó thể gặp gỡ, vì sao vậy? Những người đức mỏng trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp hoặc có thấy Phật, hoặc chẳng thấy Phật. Do bởi sự ấy, ta nói thế này: Này các Tỳ-kheo! Khó có thể thấy được Như Lai. Lại ngay khi đức Phật tại thành Vương Xá, mà chỉ có một phần ba người trong thành ấy gặp được Phật. Một phần ba số người chỉ nghe danh Phật chứ không được thấy. Một phần ba còn lại ngay cả danh tự Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng nghe.
Đủ thấy gặp Phật, nghe tên Phật đều không dễ dàng. Chúng ta rất may mắn, sanh ở thời kỳ mạt pháp, còn tiếp xúc được chút bờ rìa, không thấy qua Phật, nhưng thấy qua tượng Phật. Tuy Phật không ở đời, nhưng kinh giáo của Phật vẫn còn lưu truyền ở thế gian, chúng ta sống ở thời mạt pháp, mà còn gặp được Tịnh Độ Đại Kinh là Kinh Vô Lượng Thọ, đúng thật là khó.
Nên câu nói sau cùng, “tín huệ nghe pháp khó trong khó”, là sự thật, không phải giả. Niệm Lão nói với chúng ta, đây chính là phần trước, “nếu nghe tư kinh”, tư kinh là kinh này, bộ kinh này, “tin ưa thọ trì”, quý vị tin được, có thể vui thích, chịu niệm Phật, thì “khó trong khó, không gì khó hơn, trí huệ sanh hiểu được”, tức quý vị tin tưởng được, có thể vui mừng. ‘Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Tịnh-tông nan tín’(Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, Tịnh-tông khó tin), ba điều khó này, “Điều khó được mà nay đã được”, đã được rồi, “điều khó nghe”, cũng nghe được rồi, “điều khó tin cũng tin được”, lại thêm lý giải của trí huệ, nên là khó trong khó vậy. “Phật khuyên hành nhân phải tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật cầu sanh, chớ để lỡ qua. Ðể lỡ qua dịp này, thì thật là sai lầm vậy.” Hai câu cuối này của Niệm Lão, thật là đắng miệng nhọc lòng.
Ngày nay, chúng ta phải thế nào? Phải tin sâu nguyện thiết, thiết là khẩn thiết, nguyện là nguyện sanh Tịnh-độ, nguyện làm đệ tử Đức Di Đà, đến Thế Giới Cực Lạc để thân cận A Di Đà Phật.
Trích từ bài giảng: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 – tập 504 của HT Tịnh Không giảng
HỎI: Sách xưa có nói: Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Thiện duyên nan ngộ, Phật quốc nan sanh. Xin Thầy giảng nghĩa cho rõ.
ĐÁP: Nhân thân nan đắc: Làm sao chúng ta có cơ hội tụ được một thể xác này? Ngày nay chúng ta tu về Vô Vi, được thoát tục, mới tìm ra vạn linh hợp nhất thành con người. Những câu này là khuyến tu mà thôi.
Nhân thân nan đắc: Không dễ gì có một cái thể xác này, cả càn khôn vũ trụ đóng góp cộng với tâm linh của Thượng Đế giáo dục cho chúng ta tiến tới vô cùng. Cho nên, các bạn học nghề nào cũng là thăng hoa, nghề nào cũng là tiến hóa, bắt buộc các bạn đi tới. Câu này là khuyến tu.
Phật pháp nan văn: Nếu chúng ta không chịu tu bổ sửa chữa thì đâu có thanh tịnh mà nghe được Phật pháp. Phật pháp là vô thinh, vô sắc, thì chúng ta chỉ có thiền định thanh tịnh thì mới nghe được Phật pháp. Lý luận thế gian, các bạn đi vô chùa, cũng như nghe tôi nói chuyện đây, rồi chút nữa cũng quên: nan văn không nhớ nổi! Vì cái thức chưa mở đâu có hòa tan với cái thức mà nhớ. Nan văn là không thể nghe nổi, trừ khi các bạn tương đồng thanh tịnh thì mới rõ. Người ta nói khó, nhưng đó cũng là khuyến tu mà thôi. Thật sự, nan văn là vì thiếu thanh tịnh làm sao biết được Phật pháp.
Thiện duyên nan ngộ: Nếu không bước vào điển giới làm sao có thiện duyên, lấy cái gì hòa tan mà kêu bằng thiện giải. Lấy cái lý, cái ý niệm làm sao hòa tan với thực tế được. Còn ta tu phải đưa vào trong đó mới hòa tan. Nếu chúng ta không chịu tu bổ sửa chữa, bước vào điển giới, thì không bao giờ hòa tan mà thấy cảnh thiên đàng được. Đó cũng là khuyến tu để cho con người cố gắng đạt tới, chớ không phải cho con người thất bại đâu!
Phật quốc nan sanh: Phật quốc là sự quân bình, trật tự trong nội tâm. Hằng ngày các bạn đâu có người nào có trật tự trong thâm tâm. Trừ khi hành thiền mà giải quyết từ từ: hạ, trung, thượng, rồi đâu đó có trật tự hòa đồng với cả càn khôn vũ trụ khi các bạn đi đứng ngồi nằm, lúc đó mới thấy. Còn nếu các bạn không đạt tới trật tự đó thì câu người ta nói nan sanh rất đúng. Không thể nào bước vô được, nếu không lập lại trật tự. Còn phương pháp của chúng ta đi đúng đường, từ bộ đầu, ngũ tạng tới thể chất đều quy tụ nhất lý, lưỡng nghi hợp nhất: đó mới là sanh. Còn nan sanh là chúng ta không chịu làm, lấy gì để có sanh. Cho nên lý đời nói rất đúng không sai.
Thiền sư Lương Sĩ Hằng – Trích từ sách : Thực Hành Tự Cứu
TỈNH NGỘ
Cái tôi sống ở trên đời
Nào đi, ăn, ngủ… và chơi suốt ngày
Tham dục, luyến ái… cuồng quay
Động vào sân hận bùng ngay tức thời.
Đã vô tỉ kiếp thế rồi!
Luân hồi sáu cõi lại càng thêm đau.
Xoẹt cái thần chết tới mau
Nghiệp kia cõi thấp ôm sầu ra đi.
Chi bằng học Phật từ bi
Chỉ đường dẫn lối luôn vì chúng sinh
Từ đây tu tập hết mình
Giác ngộ giải thoát vô minh đâu còn.
– Hồng Thảo –
Nhân thân nan đắc
Phật Pháp nan văn
Thiện duyên nan ngộ
Phật Quốc nan sanh.
(Thân người khó được
Phật Pháp khó nghe
Duyên lành khó gặp
Xứ Phật khó về).
Ai cũng có thể tu hành để an lạc và hạnh phúc ngay giữa đời thường.
Để hiểu rõ hơn cách thực hành như thế nào,
>>> Tìm hiểu thêm : Ô-Hay.Vn – Tu học mỗi ngày