Bậc nhất dịch lý phương Đông
Nguyễn Bỉnh Khiêm là Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được thăng tới chức “Trình Quốc công” mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Dưới thời phong kiến của Việt Nam, ông là một trong số rất hiếm văn nhân thuần túy (tức là những người không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận) được phong tới tước Quốc công ngay từ lúc còn sống. Trong đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vế câu đối như sau: “Lý học thâm nguyên Trình tiên giác” (Dịch nghĩa: Trạng Trình hiểu sâu sắc lý học, biết trước các việc). Chính khả năng này đã tạo nên màn sương huyền thoại xung quanh cuộc đời ông.
Ông được sinh ra trong gia đình có bố mẹ nổi tiếng học rộng, mẹ là con út của quan tiến sĩ thượng thư bộ Hộ triều vua Lê Thánh Tông, tên là Nhữ Thị Thục, bà thông minh, quyết đoán, học rộng, giỏi văn chương, kinh sử, lại tinh thông cả dịch lý, tướng số, mang chí lớn của bậc trượng phu. Bà tâm niệm rằng: “Nếu không lấy được chồng làm Thiên tử, thì con bà sinh ra sau này cũng phải làm Thiên tử một nước”. Bố ông là Nguyễn Văn Định, tuy là một thầy đồ ít tiếng tăm, chẳng phải danh gia quý tộc nhưng bà Thục đã thấy được ông là người có số sinh quý tử. Tương truyền, bà đã tính toán ngày giờ để động phòng hoa chúc, rồi dặn chồng rằng: “Khi bóng trăng đến chiếc đũa, ông mới được nhập phòng”. Đợi lâu quá, ông Định nóng ruột đẩy cửa bước vào, bà trách: “Ông vội vàng như thế, con cái sau này chỉ làm đến Tứ trụ hoặc đỗ Trạng nguyên là cùng, chứ không thể làm được Hoàng đế”.
Rồi một hôm khác, bà đưa con về quê, dọc đường gặp một thầy tướng Trung Hoa. Sau khi liếc nhìn dung mạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy tướng buột miệng khen: “Tướng mạo của thằng bé này không phải tầm thường. Nhưng vì nước da hơi thô nên chỉ làm đến Trạng nguyên thôi”. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm được giáo dục cẩn thận, rèn luyện cả về thể lực và trí lực. Tuy nhiên, mẹ ông vẫn luôn muốn ông trở thành một bậc Đế vương, trong khi ông Định thì luôn lo sợ triều đình biết được tham vọng đó nên chỉ mong con mình là một người bình thường. Mẫu thuẫn gia đình tăng dần theo thời gian, mẹ ông rất bất bình nên đã bỏ con ra đi, khiến Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố. Trước khi ra đi, bà Thục vẫn còn than: “Sinh con ra với đời, mong con làm Vua thiên hạ, trị nước cứu dân. Nay thầy nó dạy con làm tôi, chán quá!”
Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ngày nay) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến tận nơi tầm sư học đạo. Một hôm, cụ Lương Đắc Bằng ốm, biết mình không sống được bao lâu, bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm lại, chỉ cho ông một cái tráp để trên đầu giường, giở ra lấy một bộ sách quý. Cụ Bằng nói: “Thầy cho con cuốn sách quý này vì chỉ có con mới có thể hiểu được nó. Lúc thầy đi sứ qua Tàu, có gặp một cụ già trao cho thầy cuốn sách này và nói: ‘Ta không cho nhà ngươi mà nhờ người đem về giao cho một người An Nam’. Thầy ngạc nhiên hỏi tên người đó, cụ già bảo: ‘Không cần, chừng nào trong tâm linh nhà ngươi muốn cho ai là người ấy được phần. Thiên cơ bất khả lộ, ta không thể nói gì hơn’. Sau này thầy mới biết cụ già đó là một dị nhân”. Bộ sách ấy chính là cuốn “Thái Ất thần kinh”. Nhiều người cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu cuốn sách này mà thông suốt được mọi việc trong quá khứ, tương lai.
Mặc dù là có khả năng thông thấu vạn vật nhưng đối với ông, mọi sự đều có sinh, trụ, hoại, diệt, dù người hay vật, gì cũng đã có số mệnh riêng của nó, có níu có giữ cũng không làm gì được. Ta từ khi cha mẹ sinh ra (sinh), rồi lớn lên, trưởng thành (trụ), thời gian sau bắt đầu già nua, bệnh tật (hoại) và cuối cùng phải chết (diệt). Quá trình sinh, trụ, dị, diệt ấy là vô thường, diễn ra trong từng giây phút, liên tục và tuần hoàn. Có chuyện kể rằng, ông đã kiểm chứng điều này khi tự mình lấy lá số tử vi cho 1 cây quạt, đoán xem cái ngày chết của nó. Ông phân vân, nghĩ quạt dùng thường xuyên mà nát đi rồi hỏng là chuyện thường, nếu mọi việc do tiền định thì thử cất giữ cẩn thận xem nó “chết” như thế nào? Rồi đến cái ngày đã dự ấy, vẫn như hằng ngày, cụ lôi quạt ra ngắm nghía, phủi bụi cho nó, kiên quyết không ra khỏi nhà để chứng kiến ngày tàn của cái quạt, kể cả người cháu mấy lần đến thăm hỏi có việc cần, thỉnh ông sang giúp, ông chối không đi. Đến lúc vợ của ông nghe được câu chuyện qua giọt nước mắt của người cháu thì đùng đùng nổi giận, la lối ỏm tỏi: “Cháu của ông có việc hệ trọng nhờ mà ông không giúp, ông ngồi nhà làm đầy tớ phủi bụi cho 1 cái quạt giấy để làm gì!” Nói xong thì lao vào giành quạt rồi xé tan thành từng mảnh. Thấy vậy, ông Trạng cười nói: “Đúng thật, ta tưởng nó chết thế nào, thì ra như vậy đó”
Ông làm quan được 7 năm dưới triều Mạc thì ông chọn lui về quê hương, dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học bên cạnh sông Tuyết (hay sông Hàn) ở quê nhà, đóng góp sức lực và trí tuệ cho thế hệ sau. Vì vậy, sau này, các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã giáo dục cho nhân dân và học trò rất nhiều về đạo làm người, đạo lý ở đời, sự học, cách học. Ông coi việc giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lý tưởng cống hiến hết mình cho đất nước. Ông đặc biệt đề cao trách nhiệm cống hiến xã hội không ngừng, cho rằng tác dụng cao nhất của giáo dục là cứu nhân độ thế, ấy mới là giáo dục bền vững.
Mặc dù đã chán ghét cuộc sống quan trường nên ông xa lánh thế sự, về ở ẩn nơi thôn dã. Thế nhưng trong lòng ông lúc nào cũng đau đáu nỗi niềm vì dân, vì nước và lời khuyên của ông với chúa Nguyễn Hoàng cũng xuất phát từ đó. Ấy là lúc mà Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, thân cô thế cô, biết là nếu tiếp tục ở trong triều sẽ có ngày bị hại, bèn sai người đến hỏi Trạng Trình, khi ấy đã 77 tuổi đang ở ẩn tại am Bạch Vân. Ông không nói không rằng, dẫn sứ giả ra hòn non bộ, mà ngâm: “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được.
Nguyễn Hoàng thực sự là người có tài đức, hiểu được ngầm ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông bèn nhờ chị gái xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ đèo Ngang trở vào). Nhờ đó, Nguyễn Hoàng không chỉ thoát được họa diệt thân, mà còn tạo dựng nên được nền móng cho cơ đồ hàng trăm năm của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Sau này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng Trình thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi. Việc nhà Nguyễn di chuyển vào vùng Thuận Hóa tạo điều kiện mở rộng bờ cõi nước Việt xuống phía Nam, hình thành địa đồ quốc gia Việt Nam như hiện nay có tầm ảnh hưởng không nhỏ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Còn tương truyền rằng, 2 tiếng Việt Nam thiêng liêng ấy cũng đã được ông nhắc trong một số tác phẩm của ông ngụ ý chỉ non sông nước Nam mình. Trong số đó có bài thơ ông viết gửi cho Trạng Nguyên Giáp Hải:
Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại
Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam.
(Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời,
Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam).