BỤI TRẦN
Bụi trần nghĩa đen như Bụi bặm, nghĩa bóng: dùng để chỉ cõi đời, thường để phân biệt với cõi tu hành
Gương trong chẳng chút bụi trần
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm
(Truyện Kiều)
Bụi trần, theo cách hiểu xưa nay, là những chuyện bon chen, trục lợi của những kẻ phàm phu tục tử. Những thứ đó thật xa lạ, khó hiểu, không được chấp nhận ở chốn thanh tao, nơi trí tuệ, danh dự ngự trị.
Khi thanh tao vướng bụi trần – hanoimoi.com.vn
ĐỪNG ĐỂ DÍNH «BỤI TRẦN»
Ngày ta mới sinh ra trên cuộc đời, chúng ta như tờ giấy trắng, thuần khiết và trong sạch.
Khi sống trong thế gian và chúng ta lớn dần thì bụi trần gian cũng thấm, nhiễm và nhuộm dần dần cái tâm trong sáng kia và biến chúng trở thành đầy màu sắc.
Nhìn cái nụ cười của một em nhỏ bốn tuổi và cũng con người đó sau 30 năm, cái nụ cười tươi đẹp hồn nhiên năm nào, giờ đây đã thay thế bằng một nụ cười của sự nhiễm trần gian, một nụ cười thấm đượm bởi tham, sân, si, ích kỷ và sự phiền não.
Vậy thì ngày nay chúng ta biết đạo và bắt đầu tu sửa, thì hãy trở lại công việc của người dọn rác. Là dọn những vết nhơ, những rác rưới của bụi trần đã thấm đẫm vào tâm hồn chúng ta sau bao năm tháng .
Hãy luôn quán sát bản thân mình như là đóa hoa sen, đóa hoa sen mọc lên từ bùn nhơ mà không bị thấm bẩn bởi mùi hôi tanh của bùn.
Hằng ngày khi tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội, chúng ta hãy luôn nhìn lại bản thân, xem bản thân đã bị nhiễm bẩn hay vô nhiễm.
Xem cái lời nói mình có thật sự chuẩn mực hay chưa, ta có nói dối, ta có nói tục, ta có nói ác khẩu và nói hơn thua, chia rẽ hay không.
Xem tâm ta có đang nổi tham lam, có đang nóng giận, có đang ích kỷ, chúng ta có đang mất từ bi hay ác độc hay không.
Đừng để tâm mình dính bụi trần.
Hãy luôn giữ cho tâm mình trong sạch thì trí tuệ mới hiện diện, cuộc sống mới bình an và hạnh phúc.
Mỗi sớm mai thức dậy, hãy luôn chào ngày mới bằng một nụ cười của sự tươi vui, hồn nhiên, trong sáng và từ bi.
Hãy mở rộng tâm hồn thương yêu cả nhân loại như thương cha thương mẹ.
Và hãy mở rộng tấm lòng thương tất cả các loài vật như thương con cái ruột của chính mình.
Hãy yêu quý thiên nhiên như quý mến thân thể của chính mình vậy.
Hãy luôn sống như thế.
Ai sống được như thế ắt cuộc sống đời đời sẽ an vui, nỗi khổ sẽ xa rời.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Cư sĩ Nhuận Hòa
FB: Tu học mỗi ngày
BỒ ĐỀ BỔN VÔ THỌ…
Trần Tuấn Mẫn
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực ở khắp nơi từ hơn một thế kỷ qua. Nhưng do có nhiều học giả nêu nghi án về người ghi chép kinh và nội dung kinh, hai bài kệ ấy cũng đáng nghi ngờ:
Bài của Thượng tọa Thần Tú:
Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
身 是 菩 提 樹
心 如 明 鏡 臺
時 時 勤 拂 拭
勿 使 惹 塵 埃
(Thân là cây bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Phải luôn lau chùi sạch
Chớ để bụi trần bám).
Bài của Lục tổ Huệ Năng;
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
菩 提 本 無 樹
明 鏡 亦 非 臺
本 來 無 一 物
何 處 惹 塵 埃
(Bồ-đế vốn chẳng cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Bụi trần bám vào đâu?).
Duyên khởi hai bài kệ này là do Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn bảo đồ chúng mỗi người hãy làm một bài kệ trình cho ngài, nếu bài nào tốt nhất, chứng tỏ được sự kiến tánh thì Tổ sẽ truyền y bát, công nhận là Tổ thứ sáu, kế tiếp ngài.Trong lịch sử Phật giáo, nhất là trong lịch sử Thiền, chưa từng có vị Tổ, vị thầy nào lại bảo các đồ đệ thi đua làm kệ để được làm chọ làm Trụ trì hay lài Tổ kế vị cả! Lý do khiến Thượng tọa Thần Tú viết bài kệ của mình lên vách chùa cũng là lạ! Thượng tọa làm xong bài kệ thì đắn đo suy nghĩ, rằng trình kệ mà mong làm Tổ kế tiếp thì không tốt, nhưng không trình thì không được Ngũ tổ nhận ra tâm tánh mình mà dạy dỗ thêm. Làm kệ xong đã bốn ngày, mười ba bận định vào trình Tổ, mỗi bận sợ đến toát mồ hôi mà không dám trình (người ghi chép Đàn kinh làm sao biết được ý nghĩ của Thượng tọa Thần Tú và tình trạng lo ngại của ngài trong lúc ấy và cả sau khi viết kệ lên vách?). Cuối cùng, bài kệ được viết lên vách chùa thì cũng là trình Ngũ Tổ bài kệ mà thôi!
Lục Tổ Huệ Năng cũng không có lý do gì chính đáng để nhờ viết bài kệ đối đáp của mình lên vách, cạnh bài kệ của Thượng tọa Thần Tú. Bài kệ này nếu mang ý nghĩa bày tỏ sự kiến tánh thì cũng mang ý nghĩa phê phán tác giả bài kệ thứ nhất là Thượng tọa Thần Tú và đồng thời đáp ứng việc thi đua làm kệ, tức là mong được làm Tổ kế vị. Sự việc này há có thể gán cho Lục Tổ được sao?
Bây giờ chúng ta hãy thử xét qua nội dung của hai bài kệ:
Bài Thượng tọa Thần Tú:
Một khi đã quyết định tu tập, quyết định xuất gia, đem thân mình, thân phận mình, để dấn thân vào con đường tìm về giái thoát tối hậu thì thân này, thân mạng này cũng vững chãi, kiên cố như cây bồ-đề, cái tâm này phải giữ cho trong sạch, sáng láng như tấm gương sáng. Do đó phải luôn luôn giữ cho thân này, cho tâm này đừng bị phiền não, dục vọng, nói chung là các lậu hoặc xâm chiếm, ví như luôn lau chùi tấm gương, giữ cho gương sáng, không để cho bụi bặm bám vào. Đây là tâm niệm, là sự nhắc nhở cho người tu, nhờ đó mà tinh tấn, có trí tuệ sáng suốt, thấy được tân tánh mình.
Bài của Lục Tổ Huệ Năng: Cây bồ-đề vốn không có, đài gương sáng cũng không có, xưa nay không có vật gì cà thì bụi trần không bám vào đâu được. Đã bảo xưa nay không có gì cả thì sao lại nhắc đến bụi trần? Không có gì cả nhưng lại có bụi trần ư? “Vô nhất vật” hay “Không” của bài kệ không có gì mới lạ! Giáo lý Không của Đức Phật đã được thuyết giảng từ 11 thế kỷ trước và được kinh điển Đại thừa triển khai từ hơn 5 thế kỷ trước thời Lục Tổ đến độ hầu như ai biết đến Phật giáo cũng đều biết qua ý nghĩa Không. Đặc biệt, người tu Phật, tu Thiền hẳn ai cũng biết kinh Kim cương dạy rằng các pháp hữu vi đều như mộng, như sương, như ánh chớp… và rằng hễ những gì có hình tướng thì đều là hư vọng…Bốn câu kệ nói về Không ấy bị gán cho Lục Tổ thực chẳng chứng tỏ gì cho cái tâm chứng ngộ!
Từ các suy luận trên, ta có thể tin rằng bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, bấy giờ là vị Giáo thọ được tôn kính, nhằm khuyến dạy đồ chúng hoặc ít ra là để tự khuyến dụ mình. Không có việc thi đua làm kệ và không có bài kệ nào được viết lên vách chùa cả. Từ đó, dĩ nhiên không hề có bài kệ đối đáp, Lục Tổ không hề có bài kệ như thế, chỉ do người sau vì vụng về muốn tâng bốc Lục Tổ và hạ uy tín của Thượng tọa Thần Tú mà thôi!
Khi ghi chép Pháp Bảo Đàn kinh, Thiền sư Pháp Hải, đệ tử của Lục Tổ (hoặc có ai đó về sau thêm bớt một số chi tiết), tưởng rằng như thế sẽ làm tăng phẩm chất cao đẹp, trí tuệ tuyệt vời của Lục Tổ, nhưng thật ra, nội dung cuốn kinh có vẻ như một cuốn tiểu thuyết viết vụng về hay một bản tường thuật sai lạc. Nhiều chi tiết trong kinh này khiến người ta khó tin là thật: Sự việc Lục tổ không biết chữ mà lại trích dẫn nhiều kinh phật đúng vanh vách, lại giảng nghĩa cả những từ Phạn ngữ; sự việc Tổ đang hàng ngày bán củi nuôi mẹ bỗng có người cho mười lạng bạc, về trao cho mẹ (có lẽ chỉ dùng được trong một năm) rồi ra đi biền biệt, không cần biết mẹ đau ốm, sống chết thế nào; sự việc Ngũ Tổ gõ ba tiếng vào cối để ngầm hẹn gặp Lục Tổ vào canh ba (nhà chủa mà có tai vách mạch rừng đến thế ư? Sao không ghé tai mà dặn?); sự việc Ngũ tổ giấu việc trao y pháp cho Lục Tổ, bảo phải bí mật rời chùa ngay, thế mà sau đó lại bảo với chúng rằng y pháp đã về phương Nam, khiến hàng trăm (?) đồ chúng rượt theo Lục Tổ để giành y và Thượng tọa Huệ Minh đã bắt kịp trước tiên; sự việc Lục Tổ chê bai pháp môn của Thượng tọa Thần Tú; sự việc Lục Tổ bảo chép hành trạng và pháp ngữ của ngài thành kinh, lấy tên là Pháp bảo đàn kinh (Trong Phật giáo, chỉ có lời Phật thuyết giảng được ghi lại thì mới được gọi là kinh), bảo là để cứu đời ( Lục tổ đâu có kiêu mạn như vậy?)…; và nhiều chi tiếng có vẻ thần bí, khó có thể tin là thật.
Phần lớn pháp ngữ (ngoại trừ một số bị chép thiếu sót hoặc do người sau thêm thắt vào) của Lục Tổ được ghi chép lại trong Pháp bảo đàn kinh là vô cùng quý giá, xứng đáng là Thiền ngữ của vị Tổ đã mở ra một chân trời mới, một không khí mới của Thiền, phổ biến khắp đất nước Trung Hoa và lan truyền khắp thiền giới của rất nhiều quốc gia. Sự chứng ngộ và địa vị cao vời, xán lạn của Lục Tổ trong Thiền giới thì không ai dám nghi ngờ. Sự phát triển Tổ sư Thiền khởi từ ngài với Thiền công án, thoại đầu… và nền văn học Thiền rất phong phú, qua hai vị Đại đệ tử của là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng, từ đó các dòng Thiền với ngài Thạch Đầu, khởi xuất dòng Vân Môn, Tào Động, Pháp Nhãn và với ngài Mã Tổ, ngài Bách trượng, khởi xuất dòng Quy Ngưỡng, Lâm Tế. Đặc biệt, dòng Lâm Tế và Tào Động phát triển mạnh ở nước ta cho đến ngày nay.
Lâu nay có lắm bài bình giảng về hai bài kệ nói trên, triển khai ý nghĩa, nói đến sự thâm diệu trong từng lời từng ý, rồi đặc biệt xưng tán Lục Tổ; thiết nghĩ chẳng dính dáng gì đến ngài cả, kể cũng hoài công!
Bụi trần bám vào đâu?
Thiên An
Khi tấm thân tứ đại này còn đang trú ngụ ở cõi Ta bà, sẽ không thể nào thoát khỏi vòng tục lụy. Sự đời không động, nhưng cũng không tĩnh. Điều trái lòng có đến, rồi sẽ có đi. Vậy phải sống thế nào để giữa chốn trần ai này vẫn giữ được an yên và trái tim thuần khiết.
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
(Bồ-đề vốn chẳng cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Bụi trần bám vào đâu?).
Bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng trích trong Pháp Bảo Đàn kinh khi người nghe đã thấu cảm, sẽ thấy như buông bỏ được bao gánh nặng sự đời trên vai. Có lẽ , ta còn phiền khi ta còn vướng chấp vào sự được mất, hơn thua, có không, để rồi chuốc lấy đau khổ, phiền muộn trong mỗi ngày đang sống.
Trong cuộc sống hiện đại, đi kèm với sự phát triển của kinh tế và xã hội là những áp lực chồng chất.
Sống an lạc qua giáo lý “tứ đại giai không”
Ngày xưa, ông bà ta thường bảo: ”Trời sinh voi sinh cỏ”. Nghĩa là sự sống vận hành như một lẽ tự nhiên, không cần đấu tranh cho sự sinh tồn. Đó là khi nguồn cung vô cùng dồi dào cho số lượng người cần vừa phải. Đến lúc nào đó, nguồn cung ấy sẽ vơi dần, sự thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần sẽ hình thành, tạo ra những mâu thuẫn gay gắt trong không gian sinh tồn.
Ngày nay, cuộc sống chúng ta không chỉ gói gọn trong khái niệm: ”đủ ăn, đủ mặc” mà đó là “ăn ngon, mặc đẹp”; có lẽ vì thế mà áp lực cuộc sống mỗi người ngày càng gia tăng. “Căng thẳng”, “trầm cảm”, “sang chấn tâm lý”… đã trở thành từ khóa nhiều người tìm kiếm. Đây là một nghịch lý khi cuộc sống càng tiện nghi con người lại có vẻ ít hạnh phúc hơn. Sự thúc bách của những nhu cầu cá nhân và các định chuẩn của guồng máy xã hội khiến cho mọi sự việc đi quá nhanh. Lượng thông tin một người phải tiếp nhận và xử lý hằng ngày vô cùng khủng khiếp.
Mỗi ngày, con người phải đắm chìm trong mớ bòng bong của email công việc, tin nhắn hối thúc của sếp, lời trách móc của gia đình hay bạn bè, và cả nỗi thị phi trên đường trần ai gió bụi. Dù mạnh mẽ đến đâu, cũng có lúc chúng ta gục ngã, chao đảo.
Thông thường, kẻ phàm tục sẽ có hai cách phản ứng. Một là phản ứng tự vệ cực đoan, gay gắt, vô tình phóng thích những năng lượng tiêu cực. Hoặc sẽ lẳng lặng cho qua nhưng tâm lại xáo động vô cùng, chấp trước chẳng yên.
Chúng ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh, trách cứ người khác khi hữu sự. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Lời người xưa dạy người nay lại hay quên. Có trách là trách chính chúng ta.
Sự phân rã của tứ đại
Khi đã thấu hiểu về tự tánh, ta sẽ hiểu rằng vốn dĩ buồn giận, khổ đau, chấp trước chẳng có cũng chẳng không. Vậy thì cái sự đời sẽ không còn gì để ta bám víu ?
Bồ-đề vốn chẳng cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Bụi trần bám vào đâu?
Vấn đề nằm ở chỗ, mỗi cá thể khi tạo dựng cuộc sống, dấn thân thương trường luôn chăm chút để gầy dựng bản ngã. Chúng ta luôn tỏ vẻ hiểu thấu sự đời, hiểu sâu tất cả, nhưng thật sự chưa thấu hiểu chính mình. Khi hiểu rõ giá trị của bản thân, không còn để tâm chấp nhặt, biết ơn những gì quy luật vũ trụ đã an bày thì có lẽ không một sự “động” nào ngoài xã hội kia làm lòng ta bất an, không một hồng trần nào làm tâm ta vẩn đục.
Cũng ở chữ “động” này mà Lục Tổ Huệ Năng đã để lại một câu chuyện cho hậu thế.
Sau khi nhận lãnh y bát, Lục Tổ Huệ Năng ẩn cư trong nhóm thợ săn mười mấy năm. Đến lúc hữu duyên, ngài mới ra thế gian giáo hóa. Một hôm, thấy hai vị tăng mặt mày đỏ tía tranh luận về gió động hay phướn động.
Vị thứ nhất cho rằng: nếu không có gió thì phướn làm sao động? Cho nên nói là gió động.
Vị thứ hai cho rằng: không có phướn động làm sao biết là gió động? Cho nên kết luận phướn động.
Mỗi vị chấp một bên không ai chịu thua ai.
Lục Tổ Huệ Năng nghe xong, nói :
– Không phải gió động cũng không phải phướn động mà chính là tâm hai vị động.
Sau khi chết thân tứ đại chỉ còn lại là địa đại
Chúng ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh, trách cứ người khác khi hữu sự. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Lời người xưa dạy người nay lại hay quên. Có trách là trách chính chúng ta. “Trách” ở đây là tự nhìn nhận và phân tích điểm cần tu sửa của mỗi người. Nếu cứ theo tinh thần ấy, sống là để học và tu sửa, thì tâm ta chẳng bao giờ vọng động trước hoàn cảnh khôn lường.
Người có tri kiến cần nhận thức rõ rằng khi tấm thân tứ đại này còn đang trú ngụ ở cõi Ta bà, sẽ không thể nào thoát khỏi vòng tục lụy. Sự đời không động, nhưng cũng không tĩnh. Điều trái lòng có đến, rồi sẽ có đi. Vậy phải sống thế nào để giữa chốn trần ai này vẫn giữ được an yên và trái tim thuần khiết.
Trong chốn bụi trần, ta chỉ là những vị khách qua đường của tháng năm
Ngày tháng thoi đưa, cuộc đời đã trải qua bao mưa gió, giữa gặp gỡ và ly biệt mà diễn dịch ra buồn vui tan hợp của cuộc đời. Những bước chân vội vàng hối hả không níu được thời gian, chẳng giữ được thanh xuân. Rất nhiều người cũng như rất nhiều sự tình, vốn vẫn chưa nhìn được rõ ràng tường tận, thì chúng đã vội trôi đi…
Khi ta vừa mới biết thế nào là trưởng thành cũng chính là lúc chợt nhận ra rằng bản thân mình đã không còn trẻ nữa. Ngày trước, ta cứ luôn cho rằng năm tháng đời người dài đằng đẵng, thế mà giờ đây nhìn lại thấy sự đời sao quá vô thường. Năm tháng trôi đi một cách vô tình, thời gian vốn chẳng do ta nắm giữ.
Năm tháng còn lại mỗi ngày một ngắn, thời gian cứ thế mỏng dần mỏng dần. Từ điểm bắt đầu cho đến điểm kết thúc, có niềm vui, có nỗi buồn, có hạnh phúc, có thương đau, cũng có những chặng đường chúng ta phải tự mình bước đi, tự mình lĩnh ngộ.
Trên con đường đời, thân động theo cảnh, nếu như có thể, thử hỏi có ai không muốn quẳng đi hết thảy phiền não chốn hồng trần mà sống trọn với tình yêu thương?
Thời trẻ, chúng ta mãi luôn cho rằng quãng đường phía trước dường như vô tận, có lượng lớn thời gian có thể nắm bắt. Nhưng khi nắng sớm bình minh rọi qua cửa sổ, xuyên qua ký ước, rơi vào trong những khoảnh khắc đã đi xa đó, ta mới chợt nhận ra, năm tháng dài đằng đẵng đó từ sớm đã ở ngay bên cạnh.
Biết bao phồn hoa nay đã thành ra xưa cũ, biết bao năm tháng giờ đã đổi thay, thời gian giống như một món kỷ vật xưa cũ, khâu khâu vá vá, nhưng lại không nỡ vứt đi. Những năm tháng đã đi xa đó, đã từng chứa đựng giấc mộng, thấm nhuần cái tuổi thanh xuân, lấp đầy những ký ức.
Có người từng nói: Khi còn trẻ chúng ta không hiểu biết gì cả, đến khi chúng ta hiểu biết rồi mới chợt nhận ra rằng ta đã không còn trẻ nữa…
Mỗi người đều có một chặng đường gian nan khó bước, cần bản thân phải tự mình lĩnh ngộ và bước đi. Chỉ cần tâm vẫn còn đó, có thể đi được bao xa thì hãy cứ đi bao xa. Sau khi vượt qua những thử thách chông gai, bạn sẽ nhận thấy rằng bạn còn mạnh mẽ hơn mình nghĩ rất nhiều.
Năm tháng đằng đẵng đong đưa, luôn cũng có những khoảnh khắc đáng nhớ được lưu lại. Những lúc nhàn rỗi, chọn ra một đoạn thời gian thuộc về mình, pha một ấm trà tịnh tâm, mỉm cười trong hương trà thoang thoảng, làm ấm tâm mình trong những ký ức tươi đẹp. Mỗi một chút đến đến đi đi đó đều là món quà tuyệt vời của tháng năm. Điều may mắn là chúng ta chưa từng cô phụ thời gian, cũng chưa từng cô phụ bản thân mình.
Có người từng nói, chờ đợi là bắt đầu già dặn của một đời. Một đời này định sẵn không thể quay trở lại, chi bằng thản nhiên đón nhận, đạt được hay mất đi, hãy cứ xem nó là điều đương nhiên, điềm tĩnh ôm giữ quang cảnh trong tâm, nhìn cười bốn mùa thay đổi. Tình người ấm lạnh, hãy xem nó là điều đương nhiên.
Trưởng thành không phải là tâm đã trở nên già đi, mà là tâm thái ngày càng điềm tĩnh ung dung. Với năm tháng vĩnh hằng mà nói, chúng ta chẳng qua chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi chẳng đáng kể. Vậy nên, hãy thuận theo tiếng gọi từ nơi sâu thẳm trong tâm, sống sao cho lòng thanh thản, để mỗi ngày đều cảm nhận được niềm vui.
Trong cõi hồng trần này, mỗi người chẳng khác chi người khách từ phương xa đến, thời gian sẽ cho chúng ta biết: niềm vui lâu bền nhất là niềm đam mê giản đơn, người khiến ta yên tâm nhất là người đồng hành với bạn hàng ngày, người khiến bạn ấm áp nhất là người bạn tri âm luôn thấu hiểu bạn.
Cảm ơn những ai đã cùng ta dắt tay nhau đi qua những đoạn chặng đường ấm áp, mong bạn hãy trân quý những người luôn ở bên. Trong năm tháng xế chiều, hãy gieo thêm hạt giống thiện lương, để tình yêu thương được lưu lại dài lâu.
Thời gian, giống như một quyển sách, dù đã trải qua bao năm tháng, nhẹ nhàng lật lại, các chữ trong sách tuy đã ngả vàng, nhưng vẫn khiến lòng người thổn thức. Mong người khách viễn phương đều sẽ thấy được những quanh cảnh tươi đẹp, mong bạn khi trở về không dính bụi trần của tháng năm.
Theo jj59
Vũ Dương biên dịch
- Giữa hồng trần cuồn cuộn, đừng đánh rơi tấm vé trở về nhà
- Trần gian quán trọ, ta lữ khách, chỉ tạm dừng chân chút rồi đi
Tìm kiếm có liên quan
- Nhuốm bụi trần là gì
- Không nhiễm, không vướng bụi trần là gì
- Phong trần là gì