Cực Lạc Quốc – Cực Lạc Thế Giới – Niết Bàn
Nguồn gốc
Khi Tam Giới hình thành, nơi gần với trung tâm Đạo Nguyên có một cõi giới gọi là Cực Lạc Quốc hay Niết Bàn.
Cực Lạc Quốc này cũng chia thành bốn phương Đông Tây Nam Bắc. Mỗi phương như thế đều có các vị Giáo Chủ, Thiên Tôn, Cổ Phật, Tiên Trưởng, Đế Quân… cai quản các cảnh giới khác nhau.
….…………………………
* Tính chất đặc trưng Cực Lạc Quốc thực cảnh
Cực Lạc Quốc thực cảnh là cảnh giới trên Cửu Trùng Thiên, từ tầng Hạo Nhiên Pháp Thiên lên đến Thượng Thiên Hỗn Nguyên, tiến gần về Đạo Nguyên.
Cực Lạc Quốc thực cảnh này, chư linh muốn nhập được vào đấy, cần chứng được quả Bồ Đề Tâm, hư tâm thanh tĩnh, không còn vướng mắc các nghiệp trần sắc tướng hư huyễn phiền não. Phủi sạch Tam Độc, Thất Tình Lục Dục chi phối tâm thức, tâm tình vô nhiễm trước các rung động thế tục thường tình. Vì thế, chư linh nơi đây đều là anh linh của muôn loại chúng sinh có cấp hồn đệ Thất trở lên trong Cửu Phẩm Thần Tiên, dù cho chân hồn ấy thuộc nhóm nào trong Bát Đẳng Chân Hồn.
Nếu chân hồn nhập về đó, bất chợt lại nhiễm niệm mê luyến hồng trần, xảy ra động tình thì tự nhiên không thể trụ tâm ở cảnh giới ấy, dễ dàng bị các ma chướng khủng kinh tâm thần, Trầm Nê Ngư lôi kéo xuống các cõi giới thấp hơn, Trung Giới hoặc nhập trần vào Hạ Giới.
Hiện tại, nơi Cực Lạc Quốc có các vị Cổ Phật an tọa ở các nơi như:
….……………………………….
* Tây Phương Cực Lạc Quốc có:
* Nhị Kỳ Phổ Độ Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ngự nơi Thuyết Pháp Đài phía trước Lôi Âm Tự, trong An Lạc Viên hay còn gọi là Lộc Uyển. Nơi đây có chư linh tề tựu đông đúc để dự thuyết pháp đàn của Ngài. Có rất nhiều hươu nai, Cửu Sắc Lộc, cỏ cây hoa lá, chim muông cầm thú đều nhuốm màu vàng óng ánh như buổi chiều hoàng hôn yên tĩnh.
* Nhị Hội Long Hoa Chưởng Giáo, Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Nhân Di Đà Cổ Phật ngự tại Kim Sa Đại Điện trong Lôi Âm Tự. Nơi đây đều được bao phủ bởi ánh sáng hoàng kim lấp lánh. Chư anh linh trong Đại Điện này đều là những chân hồn đắc quả vị A La Hán, Bồ Tát, Tiên, Phật an vị. Tất thảy chư vị nơi ấy đều thấu hiểu nhân duyên nghiệp quả của chúng sinh, phát khởi thiện niệm tâm từ của mình để giúp chúng sinh hóa giải oan khiên nghiệp báo, tịnh hóa hồi hướng về Cội Đạo.
* Tam Hội Long Hoa Chưởng Giáo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Di Lặc Vương Phật ngự tại Cội Dương Liễu ở gần Lôi Âm Tự. Ngài điều hành tất thảy quyền năng vận hành Tam Giới. Dương Liễu Linh Thụ Tiên này có tán lá rộng lớn vĩ đại vô cùng, che phủ trên cả Lôi Âm Tự. Trên mỗi chiếc lá của cội dương liễu ấy, có những hạt sương long linh phát sáng, mỗi hạt sương ấy tượng trưng cho một chân hồn có tín tâm đang nương tựa vào giáo pháp và đức từ bi của Đức Di Lặc Vương Phật.
* Linh Đài Phương Thốn Sơn ở cõi Hạo Nhiên Pháp Thiên, nơi đây khí quang ngũ sắc thanh nhẹ, có màu hơi ửng hồng trên bầu trời là chủ đạo. Sơn xuyên hà hải trùng điệp lung linh, cỏ cây muôn vật khoe sắc. Nơi hướng Tây này, có một tòa linh bảo cao xa vời vợi, trên núi ấy có Tà Nguyệt Tam Tinh Động, gọi tắt là Tà Nguyệt Động hay Tam Tinh Động. Tinh là ngôi sao, tà nguyệt là trăng mờ, trăng xế.
Động ấy có ánh sáng vàng trắng rực rỡ vì trong động có Đức Chuẩn Đề an tọa dưới gốc Thất Bảo Linh Thụ, là một cây thần to lớn mà trên cây có nở ra những chùm hoa, quả đủ loại, đủ màu sắc, đẹp lung linh lấp lánh như trân châu ngọc quý vậy.
Ở Tà Nguyệt Cung này có các vị Linh Thú như Phụng Hoàng, Khổng Tước Minh Vương, Điểu Tộc, Hỏa Tộc thường xuyên lui tới để dẫn duyên chư linh cũng như nghe thuyết giảng từ các Pháp Đàn của Đức Chuẩn Đề.
Để vô được tới bên trong, cần tu dưỡng các tính là xả ly tư dục, rèn luyện trí tuệ minh chánh, dũng cảm can đảm đối diện các ma chướng, tiêu trừ phiền não, hiểu rõ tính không của vô thường vô nhiễm vô khổ vô trụ.
Linh Đài Phương Thốn Sơn và Tà Nguyệt Tam Tinh Động này khi chiết tự ngữ nghĩa thì ám chỉ về Huỳnh Tâm, nghĩa là tâm minh chánh sáng soi. Vậy có thể hiểu nơi ngự của Đức Chuẩn Đề có tên là Huỳnh Tâm Cung vậy.
….………………………………
* Ngoài ra, thời Tam Kỳ Phổ Độ, trên con đường ngao du tu học của các chân hồn nơi Cửu Trùng Thiên, chư linh có thể diện kiến Đức Chuẩn Đề Bồ Tát ở Chưởng Pháp Cung và Đức Phổ Hiền Bồ Tát ở Phổ Hiền Động nơi tầng Hạo Nhiên Pháp Thiên.
- Nơi Cung Chưởng Pháp thì Đức Chuẩn Đề thuyết giảng về huyền vi vận hành Thiên Địa, có các bài thi để khảo thí về sự xả ly giúp chư linh tinh tấn.
- Nơi Động Phổ Hiền thì Đức Phổ Hiền trợ duyên cho chân hồn có thêm một vòng sáng màu nhiệm bao phủ toàn thân ảnh mình, từ đó mà du nhập tinh tấn vào các cõi giới khác tiếp tục tu học, tịnh hóa và xả ly vướng mắc tư dục.
….…………………………………
* Nam Phương Cực Lạc Quốc có:
Phổ Đà Sơn, Lạc Già Động là nơi ngự của Đức Từ Hàng Bồ Tát – Quan Âm Bồ Tát.
Nơi đây biển xanh tươi mát, lấp lánh ánh ngũ sắc chiếu diệu trên mặt biển. Muôn loài linh thú thủy tộc, long tộc, điểu tộc ở đây rất đông. Bên bờ biển là bãi cát trắng vàng óng ánh lấp lánh như kim sa ngọc báu. Xa xa là dãy núi Phổ Đà Sơn, trên núi ấy có động Lạc Đà hay Lạc Già là nơi tĩnh tu của Ngài.
Trên núi có trúc, dương liễu rất nhiều, nên Ngài thường thị hiện thân ảnh với Tịnh Bình và nhành trúc hoặc dương liễu vẫy cam lộ.
Bên cạnh Ngài thường có Tiên Đồng, Ngọc Nữ làm thị giả, có cả Long Nữ, Long thần và Kim Mao Hẩu trấn giữ nơi Phổ Đà Sơn, Nam Hải.
Người muốn vào được trung tâm Phổ Đà Sơn – Lạc Đà Động thì cần thực hành nguyện từ bi phổ tế chúng sinh, xả ly tư dục, từ bi cứu độ chúng sinh, thấu hiểu vô thường vô ngã vô niệm.
Nam Hải Thượng Giới này có liên thông với Nam Hải Trung Giới là Bích Hải.
Bích Hải là nơi các chân hồn loi ngoi lóp ngóp, khi rơi xuống đây liền trở nên thân hình dị dạng bất thiện bất mỹ, không đẹp đẽ vì các niệm vướng mắc vào thất tình lục dục nên biến dạng như thế.
Ngài có danh gọi Từ Hàng vì Ngài thường xuyên chèo thuyền Bát Nhã nơi Bích Hải này cứu độ chư linh đưa về Nam Hải, Phổ Đà Sơn tu dưỡng.
Cho nên những ai may duyên tới đó, lỡ ham mê tắm biển, có khả năng bị Trầm Nê Ngư bu lôi kéo trì trệ, hoặc lỡ động tình thì cũng rơi xuống Bích Hải, tệ hơn nữa là chuyển sinh vô trần gian luôn vậy.
….……………………………………
* Đông Phương Cực Lạc Quốc có:
Thất Bảo Lưu Ly Sơn, Lưu Ly Cung là nơi Đức Dược Sư Lưu Ly Vương Phật cai quản, truyền pháp, thuyết giảng cho muôn sinh ở đấy tu dưỡng tâm tánh, tịnh hóa các nhân duyên, Tam Độc Tứ Khổ của mình.
Cảnh vật khắp nơi đều là màu ánh sáng dịu nhẹ như pha lê, ánh quang 7 sắc, cỏ cây hoa lá và cổ thụ, đất đá, sông hồ, núi non trùng trùng điệp điệp long lanh lấp lánh ánh 7 sắc trông giống như những viên đá quý, pha lê, ngọc ngà châu báu vậy. Không phải như người ta tưởng là châu báu hay đá quý, mà chỉ là do ánh sáng phản quang nên nhìn tưởng như thế, chớ cảnh sắc vẫn là cỏ cây bình thường như nơi khác, bốn mùa xuân hạ thu đông đều có đủ hoa trái tươi vui đầy sức sống.
Nơi đây cũng có thú cầm, con người di chuyển khắp nơi, họ thường xuyên nhóm họp lại thành từng nhóm nhỏ năm bảy người quanh một bụi cây 7 màu mà hấp thu linh khí, tịnh hoá bản thân nơi đó.
Trên đỉnh Thất Bảo Lưu Ly Sơn có một tòa cung điện nguy nga tráng lệ toàn một màu trắng ánh lên các sắc xà cừ tuyệt mỹ, tên gọi Lưu Ly Cung. Chúng sinh tụ họp về đó thường xuyên có Đức Dược Sư Lư Ly thuyết giảng về sự sinh thành hoại diệt vô thường.
Muốn vào sâu bên trong gần với Đức Dược Sư, cần tu dưỡng và tri ngộ về vô thường, vô khổ, tứ khổ, hi sinh, tịch tĩnh, tâm thành vững vàng, chánh định, kiên trực, từ bi trí tuệ đủ đầy, hiểu về thảo dược liệu, hiểu về thanh tịnh thủy, thánh thủy, đan dược.
….…………………………….
* Bắc Phương Cực Lạc Quốc có
Thiên Lôi Sơn, Lôi Âm Cổ Đài, là nơi cư ngụ của Đức Bất Không Thành Tựu Bồ Tát hay còn được biết đến với tôn danh là Thiên Cổ Lôi Âm Bồ Tát.
Nơi đây có những cái Thiên Cổ (Trống Trời) to lớn, được kết thành bởi Ngũ Sắc Tường Vân. Cỏ cây hoa lá, chim muông cầm thú đều ẩn hiện trong ngũ sắc tường vân. Bầu trời cũng thường xuất hiện những dải hào quang ngũ sắc như mấy dải lụa đang tung bay phấp phới trong không trung vậy.
Các Thiên Cổ mỗi khí phát ra ánh đạo quang vi diệu nhấp nháy liên hồi thì phát sinh ra ánh chớp cùng âm ba vang vọng khắp không gian. Âm ba này không chỉ đơn giản là tiếng sấm nổ vang trời, mà còn ngân nga thành giai điệu trầm bổng, nhẹ nhàng chậm rãi giúp chúng sinh Tam Giới tịnh hóa nhân duyên nghiệp quả của mình.
Ngài thường thị hiện thân ảnh là nam nhân tuổi chừng ba mươi, thân để ngực trần, thân dưới là quần ống rộng, xung quanh có nhiều cái Thiên Cổ nhỏ và mấy dải lụa tung bay phấp phới phát ra ánh hào quang ngũ sắc, phía trên đầu có một cái lộng báu cũng được kết bởi ngũ sắc tường vân và muôn hoa khoe sắc trên ấy.
Toàn thân ảnh Ngài thường ẩn hiện trong ngũ sắc tường vân.
Khi Ngài vân du Tam Giới thường hóa thân thành Đại Bàng Kim Sí Điểu, có tiếng kêu vang vọng khắp Tam Giới, sải cánh tạo nên ánh sáng vàng rực soi rọi các nơi tối tăm.
Ngài dùng pháp âm điểm hóa chúng sinh, gieo vào lòng chúng sinh hạt giống thiện lành, cơ duyên ngộ Đạo viên giác, giúp tịnh hóa các nhân duyên nghiệp quả của chúng sinh trong sự tịch tĩnh.
Giáo pháp của Ngài hướng về xả ly tư dục, thanh tĩnh vọng niệm, tiêu trừ Tam Độc, tà tính.
Muốn về nơi của Ngài thì cần đoạn niệm tư dục, thanh tĩnh vô ưu, vô ngã.
….…………………………….
* Trung Ương Cực Lạc Quốc
Chính là Cội Đạo, Đạo Nguyên.
Khu vực này có:
Bạch Ngọc Kinh, Bắc Đẩu Cung, Ngọc Hư Cung, Linh Tiêu Điện…
Nơi các cảnh giới đặc biệt ấy, có chư vị cư ngụ và chưởng quản như:
* Tam Tôn Khởi Nguyên hay Tam Thiên Vị:
* Ngọc Hư Cung do Đức Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng chưởng quản. Người ngự trên Bạch Ngọc Đài, hay còn gọi là Cao Đài, Lạc Thiên Thai, Linh Tiêu Điện.
Ngôi của Người chính là Ngôi Thái Cực, Ngôi Dương Quang.
Phía trước Ngôi Thái Cực này còn có một Thiên Nhãn là biểu tượng của Đức Đại La Thiên Đế.
Người ở đấy chan rưới hồng ân là điển quang thiêng liêng từ khối Đại Linh Quang chiết ra các điểm Tiểu Linh Quang gieo vào lòng vạn linh. Điểm sáng nhỏ này chính là lương tâm, lương tri, Thiên Lương, Phật Tánh vậy.
Người nắm cán cân công bình của quy luật Nhân Quả Tình Duyên Luân Hồi Sinh Tử, gọi ngắn gọn thì là luật Bác Ái Công Bình vậy.
….………………………….
* Ở Ngọc Hư Cung, trên Bạch Ngọc Đài, Ngôi Vô Cực là nơi ngự của Đức Cửu Thiên Huyền Mẫu.
Người thường an định tại Bát Cảnh Cung, bên trong khu vực Diêu Trì Cung, thường hành việc tạo hóa hồn phách vạn linh từ hai khí Âm Quang và Dương Quang, gìn giữ vòng xoay luân hồi sinh tử của sinh trụ hoại diệt.
Nhưng mỗi khi thiết triều hội hiệp chư Thánh Tiên Phật thì Người xuất hiện nơi Ngôi Vô Cực, Ngôi Âm Quang, gần Ngôi Thái Cực vậy.
….…………………………..
* Ở Ngọc Hư Cung, trên Bạch Ngọc Đài, Ngôi Hư Vô tịch tĩnh thì có Đức Hồng Quân Lão Tổ ngự nơi ấy.
Người thường an định tại Bắc Đẩu Cung, là vị chưởng quản Bắc Đẩu Cung, là vị Thầy dạy Đạo của muôn loại sinh linh, đưa chúng sinh hồi hướng về Đạo Nguyên.
Nhưng mỗi khi thiết triều hội hiệp chư Thánh Tiên Phật có việc vô cùng quan trọng thì Người sẽ ngự nơi Ngôi Hư Vô.
….…………………………
* Cả ba vị Tam Tôn Khởi Nguyên là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Cửu Thiên Huyền Mẫu, Đức Hồng Quân Lão Tổ tuy rằng cùng ngự ở 3 ngôi đặc biệt gọi là Tam Thiên Vị.
Nhưng mà Đức Đại La Thiên Đế và Đức Hồng Quân Lão Tổ ít khi xuất hiện. Một vị là hóa thân của Hư Vô Chi Khí, một vị là hóa thân của Thái Cực Đại Linh Quang nên ít khi nhị vị xuất hiện. Chỉ có Đức Cửu Thiên Huyền Mẫu, do nắm quyền hành tạo tác chân thần từ hai khí âm dương, nên chúng sinh vạn loại khi về đến Ngọc Hư Cung này có thể nhìn thấy hình ảnh người Mẹ thân thương của mình, có gương mặt hiền từ phúc hậu giống với gương mặt người mẹ sinh mình ra nơi trần thế vậy.
Cũng từ điểm này mà nhiều giáo phái không biết rõ sự tồn tại của Đức Đại La Thiên Đế, Đức Hồng Quân Lão Tổ và Đức Cửu Thiên Huyền Mẫu là Tam Thiên Vị. Họ chỉ biết đến duy nhất Đức Cửu Thiên Huyền Mẫu, được gọi với tôn danh Lão Mẫu, Vô Cực Lão Mẫu và tôn thờ Người tối cao tối trọng trong tín ngưỡng.
* Tuy quyền năng thiêng liêng Âm Dương tương hiệp, nhưng rõ ràng chúng ta cần hiểu Âm thì tượng trưng cho hoại diệt, Dương tượng trưng cho sinh tồn. Nên nếu thờ Đức Từ Mẫu là tối cao, Ngôi Vô Cực, Ngôi Âm Quang thì thật là một sự thiếu sót và có phần nghiêng về cơ hoại diệt của Đại Vũ Trụ vậy.
….…………………………..
* Ngoài ra ở Linh Tiêu Điện thuộc Ngọc Hư Cung này còn có các vị như:
Đức Nhiên Đăng Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn Nhất Kỳ Phổ Độ.
Đức Thái Bạch Kim Tinh Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Nhiên Đăng chưởng quản việc thiết lập các lễ hội họp chư Thánh Tiên Phật cùng nhau tạo định Thiên Điều, quy tắc vận hành sinh thành trụ hoại diệt của Tam Giới. Là cơ quan ban hành giới luật, lập Pháp.
Đức Thái Bạch Kim Tinh thì là vị chưởng quản cơ quan hành pháp, thực thi các quy tắc vận hành Tam Giới, thưởng phạt thuận theo nhân duyên nghiệp quả tu dưỡng tâm tính của muôn sinh linh.
….…………………………
* Bắc Đẩu Cung thuộc Bạch Ngọc Kinh
Nơi đây phát xuất ra chư vị Giáo Chủ truyền Đạo khắp Tam Giới. Ở Cung này, có hai vị Đại Tiên chính là Đức Nam Tào và Đức Bắc Đẩu. Hai vị ấy coi về bộ sinh tử, vận mệnh, kiếp số, họa phúc của muôn sinh trong Tam Giới.
Đức Nam Tào được chúng sinh biết đến chính là Đức Nam Cực Tiên Ông hay Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, coi về thọ mệnh.
Đức Bắc Đẩu chính là Đức Bắc Cực Đại Đế hay Tử Vi Đại Đế, ngự tại Tử Vi Tinh nên Ngài còn được gọi với tôn danh Tử Vi Tinh Quân, Tử Vi Đế Quân, chủ mệnh về sự hưng thịnh, công danh thành tựu tột bậc của một người, quốc gia dân tộc.
Cả hai vị Nam Tào Bắc Đẩu cai quản vạn tinh tú vậy, đều được hiểu như là hai hóa thân chiết linh của Đức Tam Thanh Đạo Giáo Thượng Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn.
….………………………………………
* Cực Lạc Quốc tâm cảnh
– Cực Lạc Quốc tâm cảnh là cảnh giới của tâm cảm, tưởng thức, tri ngộ của một hành giả tu tập. Người đạt được các trạng thái tinh tấn như chánh định, chánh tư duy, chánh thiện nghiệp, vô lậu, thanh tĩnh, bố thí, vô niệm, vô ngã, vô dục… thì sẽ được nhập vào những cõi giới có các yêu cầu tương ứng của Cực Lạc Quốc thực cảnh. Hành giả tu tập tinh tấn chân thành có thể đạt trạng thái Cực Lạc ngay tại đời hiện thế. Tâm thức có thể du nhập Cực Lạc Quốc bất kì lúc nào và ngay khi từ bỏ xá thân.
– Cực Lạc Quốc tâm cảnh này, đối với những người tu tập theo pháp môn đã rơi vào tình trạng bế pháp, mạt pháp. Có công phu hành trì nhưng không còn phù hợp với thời đại, không phù hợp với giới luật Thiên Điều thì không thể nhập được vào thực cảnh Cực Lạc Quốc.
………………………………
* Nguy hại về sự ảo tưởng Cực Lạc Cảnh của chúng sinh.
Đây là trạng thái không ít người vướng mắc lầm tưởng.
Người nghĩ tưởng rằng bản thân mình đã chứng đắc các trạng thái tinh tấn, nhưng thực ra họ còn vướng mắc đủ thứ.
Người tưởng rằng mình đã xả ly vướng chấp vô niệm vô ngã, lại là vướng mắc nghiệp bất thiện của thân khẩu ý vì không giữ đúng giới luật tu hành.
Người tưởng rằng bản thân đã chứng đắc trạng thái Cực Lạc hay là Niết Bàn, được nhìn thấy chư Phật và Bồ Tát hiển hiện trước mắt mình với thân ảnh đẹp đẽ lung linh rõ ràng thuyết giảng cho họ hiểu chuyện này chuyện nọ… thực ra lại là ma chướng của lòng si mê, tham cầu được chứng pháp nhưng thực hành tu dưỡng tâm tánh còn yếu kém, biếng nhác và sai phương pháp.
Chúng sinh nhóm này, khi mất đi thân mạng thì không chuyển sinh vào các cõi an lạc, mà chuyển sinh về Lạc Hồn Trì.
Nơi đó, họ tự hoan hỉ trong huyễn cảnh của tâm tưởng bản thân rằng mình chứng đắc Niết Bàn, mình là Phật, Bồ Tát, Đại Tiên, Đại Thánh, mình cũng có trú xứ, có quốc độ của mình… họ ở đấy để tự chiêm nghiệm huyễn tưởng đời mình.
Đến một lúc nào đó, may mắn đủ duyên, họ tự giác ngộ rằng đó là do họ mê ảo, si tâm vọng tưởng khởi sinh ma chướng trên đường tinh tấn của mình. Khi đó, họ sẽ được chuyển sinh giải thoát khỏi Lạc Hồn Trì, rồi tùy duyên sở ngộ, nhận thức mà chuyển sinh thành dạng gì, ở đâu trong Tam Giới vậy.
Trường hợp cố ý muốn xâm nhập trái phép vào Cực Lạc Thế Giới khi chưa đủ điều kiện.
– Có những chơn hồn chưa đủ lực thanh tịnh, còn đầy dẫy những hỗn loạn, chấp niệm tham sân si ám muội cả thần thức, vô minh che lấp Thiên Tánh mà muốn được nhập vào cõi giới thanh tịnh này. Họ sử dụng các Pháp huyền công để xâm nhập vào nơi thuần khiết này thì chính lực thanh tịnh của cõi này sẽ làm tịnh hóa khí chất trọng trược của họ. Lúc ấy họ sẽ cảm thấy đau đớn khổ sở vô cùng trong quá trình được thanh tẩy, từ đó họ sẽ có ba xu hướng.
- — Cố gắng chịu đựng đau đớn, đối diện với những khổ não, tội lỗi, những nghiệp bất thiện trong hành tàng tồn tại từ nhiều đời nhiều kiếp mình đã từng gây nên. Tự mình thức tỉnh, sám hối nghiệp duyên của mình, hồi hướng về điều thiện lương, quyết tâm buông xả các chấp niệm bất thiện đầy đau khổ. Lúc ấy, chơn hồn đó sau một khoảng thời gian được tịnh hóa, sẽ trở nên thanh nhẹ, trong sạch, rũ bỏ được các phiền não thế tục tình trường, đoạn tuyệt sự khổ bởi chấp niệm. Bấy giờ, họ có thể thật sự nhập vào Bạch Ngọc Kinh, chuyển hóa nhân duyên nghiệp quả của mình, tìm cách trả nợ những nghiệp bất thiện từng gây bằng cách lập thệ nguyện phụng sự chúng sinh, đem lại lợi lạc, hạnh phúc an vui cho vạn linh khắp Tam Giới.
- — Khi họ phải đối diện các sự khổ trong lúc được tịnh hóa thì họ không dám chấp nhận nó, tìm cách chối bỏ nó, không quán chiếu được nhân duyên nghiệp quả của mình. Lúc bấy giờ họ không chịu nổi các đau đớn khổ não dày vò tâm thức của mình, tự nhiên sẽ xuất ngoại khỏi pháp giới thanh tịnh của lằn minh khí nơi Bạch Ngọc Kinh, trở về với đúng nơi phù hợp với họ.
- — Khi họ đối diện các sự khổ trong lúc được tịnh hóa, trong lòng họ khởi sinh những ý niệm bất thiện vô cùng tiêu cực. Tâm ý họ phát ra những chấp niệm oán hận, báo thù các nhân duyên từng gây đau khổ cho mình thì từ họ bộc phát sát khí, oán khí nặng nề. Các trược khí này biến chơn hồn ấy thành vật chất hấp dẫn linh quang lôi điện tập trung vào họ. Nếu may mắn thì họ có thể rời khỏi lớp minh khí thanh tịnh này, nếu lỡ không may, không rời đi kịp, bị quá nhiều luồng lôi điện đánh trúng thì tiêu tán hồn phách. Các mảnh vỡ của chơn hồn ấy do quá trọng trược nặng nề nên sẽ chịu tác động của lực hấp dẫn ở các cõi Hạ Giới hữu hình. Sau khi rơi vào các cõi Hạ Giới, những mảnh hồn nhỏ li ti này chuyển sinh thành các dạng tồn tại đơn giản như là hạt bụi, sỏi đá, vật chất kim loại… Trải qua trăm muôn ngàn kiếp sinh tồn, hoại diệt, các mảnh hồn ấy dần tinh tấn chuyển sinh và kết hợp lại với nhau thành các sự tồn tại phức hợp hơn như cỏ cây hoa lá, chim muông cầm thú, rồi tới con người. Một quãng đường dài như thế, có thể giúp chơn hồn ấy thực sự tỉnh ngộ, thấu hiểu sự khổ, nỗi đau của chúng sinh từ đó mà trân quý bản thân lẫn muôn sinh trong Tam Giới. Họ sẽ có ngày về lại với cội Đạo nơi Bạch Ngọc Kinh vậy.
Tam Giới Toàn Thư
Thanh Vân Thật tuyệt vời .cảm ơn Tam Giới Toàn Thư đã chuyển lên trang những thông tin , bài viết hay cho tất cả những chúng sanh đọc ,học hỏi , và hiểu biết về đạo (các tầng trời , các cung, các cõi giới nói riêng và trong tam giới nói chung… )
Billy Kidd Cho em hỏi là mình mới bắt đầu trên con đường tu tập, cũng không có tu vi hay công đức như các bậc thiền sư hoặc A-la-hán để có các chứng quả vô lậu, vô ngã, vô dục thì liệu vẫn có thể được chuyển sinh vào cõi Cực Lạc sau khi thân hoại mạng chung không ạ
TGTT Muốn vãng sanh nơi Cực Lạc Quốc, vốn là các cõi vô vi thanh tịnh, rất gần với cội Đạo, thì tránh làm các điều dữ, trường chay giới sát, thường làm các điều lành, tâm không vọng động thất tình lục dục. Thường xuyên giữ được tâm ý và lối sống như thế mỗi ngày, lỡ như đột ngột kết thúc thân mạng, thì cũng ít bị vướng mắc các chấp niệm đau khổ nơi thế gian. Khi đó, nếu trí tuệ, tâm đức, công nghiệp đủ đầy thì có thể chuyển sinh vào các cõi Cực Lạc phù hơp tương ứng. Nếu chưa đủ, thì linh hồn vẫn có thể tiếp tục tu dưỡng các phương thức phù hợp để nhập được vào Cực Lạc Quốc
Hoàng Thanh Lam Anh cho em hỏi về pháp môn tịnh độ bên đạo phật có mục tiêu là hóa sanh tại Tây Phương Cực Lạc của giáo chủ A Di Đà tùy theo độ tinh tấn của tu tập mà hóa sanh vào 9 phẩm sen. Cái này là thế nào ạ? có đúng ko ấy ạ? Vì Tây Phương cực lạc của tác giả em ko có thấy có mô tả giống như kinh A Di Đà ạ.
TGTT Em xem bài về Lôi Âm Tự – Di Đà Tịnh Thổ và Cửu Phẩm Liên Đài nhen em
Cực Lạc Quan
– Cực Lạc Quan là cổng vào của Cực Lạc Thế Giới. Ở mỗi cổng này thường có pháp giới nghiêm ngặt cùng chư Long Thần Hộ Pháp trấn giữ.
– Cũng giống như Thiên Môn, nhưng Cực Lạc Quan nghiêm ngặt hơn rất nhiều. Vì vào cõi Thiên thì các đẳng chân hồn có tu dưỡng, có khi chưa thanh tĩnh nhiều, chỉ cần có công quả, phước báu đã có thể vào được. Có thể hiểu vào được cõi Thiên cần mức phước đức, tu dưỡng của cấp hồn từ 4/9, nhưng vào Cực Lạc Quốc thì cần mức tu dưỡng thanh tĩnh của cấp hồn 7-8-9/9.
* Hình dạng và các tính chất đặc trưng
– Cực Lạc Quan có muôn hình vạn trạng như là Cổng Tam Quan, một hoặc nhiều tòa tháp canh, Bát Quái Đài, các cột trụ năng lượng mãnh liệt, cây đại thụ to lớn, hồ sen thơm ngát dịu ngọt, hay đơn giản hơn nữa chỉ là một đài sen quý báu rực rỡ đại phát ngũ quang…
– Những chân hồn tiến nhập vào Cực Lạc Quốc, cần có đủ công viên quả mãn, phước đức vẹn toàn. Để đạt được điều ấy, cần tu đúng Chánh Pháp của mỗi thời kỳ phổ thông Giáo Lý Đại Đạo. Nếu tu không đúng Chánh Pháp, hoặc tu theo pháp đã không còn được minh chứng bởi chư vị bảo hộ Pháp ấy thì xem như mất thời gian công sức mà không có thành tựu Đạo Quả vậy.
– Có thể hưởng được cảnh Cực Lạc nơi Cực Lạc Thế Giới, nhất định phải đường đường chánh chánh, danh chánh ngôn thuận thông qua Cực Lạc Quan mà vào. Không có chuyện xâm nhập bất hợp Pháp. Bởi nếu không thông qua Cực Lạc Quan, các chân hồn đi từ các nơi khác tiến nhập vào Cực Lạc Thế Giới sẽ gặp một lớp màn Minh Khí pháp giới bao phủ. Minh khí này mãnh liệt chẳng khác nào điển quang Lôi Bộ. Hễ tiếp xúc tiếp cận với trược quang, tà ám khí, năng lượng không thanh tịnh thì tự nhiên Minh Khí ấy thanh tẩy tiêu trừ cho đến khi hoàn toàn hòa nhập được vào dòng năng lượng thanh tịnh ở Cực Lạc Quốc. Chân hồn nào không đủ thanh tĩnh, không đủ công nghiệp, còn vướng các tư niệm tư dục, trược khí bám nơi mình thì khi được thanh tẩy có thể sẽ bị bào mòn cho đến tiêu tán chân thần thành nhiều mảnh hồn, phiêu bạt khắp nơi trong Tam Giới.
– Pháp Giới bảo vệ ở Cực Lạc Quan thường là Thái Cực Lưỡng Nghi Trận, là một vòng xoáy năng lượng ngay cổng, trông giống như một cái chong chóng xoáy mạnh làm cho bất kì thứ gì tiến gần đều bị thổi bay ra xa. Hễ chân hồn nào có đủ công nghiệp Đạo Quả, có chứng thư của các vị cai quản Cực Lạc Thế Giới thì tự nhiên có thể ra vào thong thả không hề bị tác động bởi pháp giới ấy.
– Chư Long Thần Hộ Pháp đa phần đều thuộc cấp hồn từ cấp 7 trở lên, có thể tự do ra vào Cực Lạc Quốc.
– Chư vị thị hiện muôn hình vạn trạng như Linh Thú Dạng, Tiên Nhân Dạng, Phật Dạng, Bồ Tát Dạng, Kim Cương Hộ Pháp, Hoàng Cân Lực Sĩ, Tu La Vương, Minh Vương, Chiến Thần, Long Thần, Hỷ Lạc Thần…
– Hiện tại ở các Cực Lạc Quan đều có rất nhiều chân hồn có tu mà chưa thành tựu viên mãn đang đứng ngồi tụ họp ở cổng. Họ đợi vận may, đợi chờ những đợt thi tuyển chọn công nghiệp để có được chứng thư tiến nhập Cực Lạc Quốc.
Vì họ có công phu tu hành theo Cựu Pháp, Cựu Luật, tức là những Pháp tu đã thất chân truyền, đã không còn được thực chứng vào thời Tam Kỳ Phổ Độ nữa.
Việc ấy giống như họ dành công phu một đời để gieo trồng, chăm bón cho những hạt giống đã bị luộc, bị lép, không có khả năng nảy mầm sinh trưởng nên hoa kết quả. Nên họ không cam lòng, đành tiếp tục chờ đợi vận may.
Bởi lẽ chuyển sinh vào luân hồi, hay là các cõi giới thấp hơn thì họ không chấp nhận. Họ muốn hưởng Cực Lạc Cảnh Giới, vì họ đã dành một đời tu dưỡng theo những gì mình tin tưởng nên vậy. Họ chán ngán, lo sợ nếu chuyển sinh lỡ như không gặp được Chân Pháp, Chân Đạo, Chân Truyền… thì biết phải làm sao đây. Bao giờ mới có thể giải thoát, mới thành tựu viên mãn được.
– Cực Lạc Thế Giới cần có Cực Lạc Quan, lại có pháp giới và chư Long Thần Hộ Pháp nghiêm ngặt vì đó là nơi thanh tịnh trang nghiêm, nhất định không thể để những gì bất tịnh, loạn động, ô trược tiến nhập gây rối loạn nơi ấy. Các sự xâm nhập như thế, bao gồm các quý vị quỷ vương cấp cao có ý đồ tà niệm, lẫn chúng sinh Tam Giới có tu mà chưa viên mãn thanh tịnh, còn vướng mắc loạn động.
– Thỉnh thoảng vẫn có những cuộc chiến diễn ra ở Cực Lạc Quan giữa chư vị Long Thần Hộ Pháp cùng với tà linh tinh quái, các chúa quỷ cuồng vọng lẫn những nhóm hội tu dưỡng mà chưa trọn tâm. Sau khi ở ngoài cổng chờ đợi lâu ngày, họ không thanh tĩnh hơn, không tinh tấn hơn mà ngày càng bất tịnh, cho tới lúc họ không giữ được sự thiện lương của mình thì họ muốn làm càng, muốn xông bừa, muốn tiến vào đánh phá Cực Lạc Quan, Cực Lạc Quốc vậy.
– Ngoài ra, vào thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Bạch Ngọc Kinh cùng Cực Lạc Quốc đều có Đại Ân Xá tất thảy các đẳng chân hồn. Nhờ vậy, có nhiều chân hồn trên đường tinh tấn của mình cũng được đặc ân là được chư vị phụ trách độ duyên dẫn độ cho du nhập vào Cực Lạc Thế Giới tham quan một chuyến. Chuyến đi này nhằm giúp các chân hồn ấy tăng thêm tín tâm, kết thêm duyên lành, càng thêm thanh tĩnh và thuận duyên tu dưỡng tinh tấn sao cho tận thiện tận mỹ, trọn lành trong sạch.
………
* Cực Lạc Quan trong kinh điển Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Kinh Tiểu Tường
Tịnh niệm phép Nhiên Đăng tưởng tín
Hư Vô Thiên đến thính Phật Điều
Ngọc Hư Đại Hội ngự triều
Thiều quang nhị bá Thiên Kiều để chân
Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn
Cực Lạc Quan đẹp phận Tây quy
Vào Lôi Âm kiến A Di
Bộ Công Di Lặc Tam Kỳ độ sinh
Ao Thất Bửu gội mình sạch tục
Ngôi Liên Đài quả phúc Già Lam
Vạn linh trỗi tiếng mừng thầm
Thiên thơ Phật Tạo độ phàm giải căn.

Tam Giới Toàn Thư
Đại Dương Liễu Niết Bàn
Nguồn gốc
Là cây dương liễu đại thụ hùng vĩ xuất hiện từ thuở xa xưa ở tầng Hỗn Nguyên Thượng Thiên, thuộc cõi Niết Bàn Cực Lạc Quốc.
Hình dạng, tính chất đặc trưng
– Đại Dương Liễu có tán lá vĩ đại cỡ vài trăm cây số, bao phủ khắp thảy một vùng trời. Bên dưới tán cây ấy là khối công trình Kim Tự Tháp nơi Đức Di Lặc Vương Bồ Tát an ngự.
– Lá của cây nhuyễn mảnh, to hơn sợi tóc một chút, ở mỗi lá cây có một hạt sương long lanh lấp lánh linh diệu. Hạt sương ấy chính là biểu trưng của một chân hồn trong Tam Giới có đức tin mãnh liệt đang nương tựa vào Đức Di Lặc Vương Bồ Tát.
– Có thể hiểu cây Đại Dương Liễu chính là pháp thân Sinh Nguyên Hoa của Đức Di Lặc Vương Bồ Tát. Cây ấy tinh tấn phát triển ngày một to lớn theo thời gian, cành lá thêm xanh tươi rậm rạp. Đó là quá trình tông đường thiêng liêng của Ngài ngày thêm đông đúc, chúng sinh tin thờ Ngài, nương tựa Ngài ngày thêm nhiều. Hoặc mỗi khi Ngài chiết linh giáng thế trong Tam Giới, nơi cây ấy lại phát sinh thêm một cành nhánh lá, hoặc là nảy sinh thêm một cây hoa nhỏ bé dưới gốc cây, trên thân cây.
– Hào quang cửu sắc nghê hồng từ Đại Dương Liễu phát ra linh diệu khắp cả Tam Giới, vạn linh sinh chúng trong cả vũ trụ này được hưởng hồng ân ấy từ Ngài. Hễ chúng sinh nào khởi tâm thành phát nguyện xưng tán tôn danh của Đức Di Lặc, tin và thực hành theo giáo pháp thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Ngài làm vị Chưởng Giáo Long Hoa Đại Hội Bạch Dương Kỳ, thì người ấy sẽ được giải thoát, có một nơi chốn nương tựa ở cội Đại Dương Liễu tối cổ này vậy.
– Người ăn chay, sống chân thật lương thiện, thường làm các điều lành, tránh làm các điều dữ, thực hành thương yêu hòa đồng nhân ái với muôn loài thì có thể kết duyên với Ngài, được Ngài độ dẫn. Họ có thể trì niệm các câu tâm chú sau để kết duyên lành với Ngài:
“Nam mô Di Lặc Vương Bồ Tát.”
“Nam mô Tam Hội Long Hoa Bạch Dương Đại Hội Di Lặc Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn.”
“Nam mô Di Lặc Vương Bồ Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bệnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng.”